Tình hình liên quan đến Dexia tại Bỉ, một ngân hàng sắp đi đến phá sản và có khả năng bị giải thể.
Đây là bank đầu tiên liên quan đến vụ khủng hoảng nợ công và khủng
hoảng ngân hàng ở Âu châu. Liên quan đến vụ này, có đánh giá từ người
trong cuộc (CEO và BOD) cho rằng Deixa giống một hedge fund hơn là một
real bank! “Dexia was not a bank but a hedge fund” (Creditwritedown)
“Dexia was more like a hedge fund
than a real bank. During the three years that we were at the helm of
Dexia, we have done everything to build a better risk profile, but the
euro crisis has thrown a spanner in the works. That is the explanation
of both top men.[Dexia CEO Pierre Mariani and Chairman Jean-Luc Dehaene]
“
“They illustrated their message with
numbers. The portfolio of toxic assets grew from $40 to 260 billion
between 2006 and 2008, but has since been reduced to “less than 100
billion”. The short-term financing of long term loans in 2008 accounted for 43% of the balance sheet, an “aberrant situation,” according to Mariani. That percentage has been reduced to 19%”
Với số liệu minh chứng từ danh mục tài
sản xấu tăng lên đến 100 tỷ USD và tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho
vay trung dài hạn lên rất cao và trong quá trình giảm xuống ở mức 19%.
Nên liên tưởng một số vấn đề nào có thể đến với một số bank ở ViệtNamhay không?
Ở VN hiện tại có lẽ có ba vấn đề liên
quan: Thứ nhất là tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (short-term
financing of long term loans) vẫn ở mức cao và đây là vấn đề khá nan
giải của tất cả các NH ở VN. Quy định là không quá 30%, nhưng chất lượng
là một ẩn số và vẫn là một trong những nhân tố chính đe dọa thanh khoản
của hệ thống NH. Thứ hai là dư nợ vào lĩnh vực Phi sản xuất, trong đó
có BĐS, CK (đặc biệt là BĐS, đây được xem như cho vay dài hạn và tạo…nợ
xấu với tỷ lệ nhanh và cao!) Và thứ ba là khả năng hấp thụ thua lỗ khá
mỏng với một tỷ lệ vốn chất lượng cao trên tổng tài sản thấp (leverage
cao, ví dụ vốn khoảng 5.000 tỷ nhưng TTS lên cả 100.000 tỷ), tức là một
sự mất mát với một tỷ lệ nhỏ trên TTS đủ gây khó khăn cho NH. Đo lường
khả năng này, được thể hiện bằng chỉ tiêu TCE ratio.
Chỉ tiêu TCE ratio (Tangible Common
Equity Ratio, Tỷ lệ tỷ lệ vốn cổ phần hữu hình) ở mức thấp! Chỉ tiêu này
thấp thì khai thác tối đa được dòng vốn cổ phần hữu hình, tuy nhiên sẽ
rất rủi ro khi khả năng hấp thụ những rủi ro tổn thất về tài sản (thua
lỗ, nợ xấu như liên quan đến BĐS, cho vay thế thấp,…) kém, sức chịu đựng
bị sụt giảm và nhanh chóng đi đến mất khả năng thanh toán. Trong các
cuộc stress test của các NH ở Mỹ hay Châu Âu, đây là một tỷ lệ được sử
dụng (mức tối thiểu phải đạt 3% trong kịch bản worst – case scenario,
bình thường ít nhất phải đạt 5 và một ngân hàng tốt nên duy trì tới mức
7%)
Bên cạnh đó, mức độ tùy thuộc vào dòng
vốn “nóng”: WFR – Wholesale Funding Ratio cũng được sử dụng để đánh giá
mức độ rủi ro, có thể hiểu là tỷ lệ giữa nguồn cho vay không từ tiền gửi
của KH so với cho vay. Tức là NHTM sử dụng nguồn từ các Định chế tài
chính khác trên thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ, từ vay
mượn từ NHTW để cho vay lại nền kinh tế. Trong hoạt động của NHTM, vốn
lõi để cho vay (core deposit) là vốn huy động từ TCKT và dân cư. Các
NHTM VN đang bị hạn chế việc sử dụng vốn từ Thị trường liên NH, từ SBV
để cho vay lại và trong quá trình giảm sau một thời gian dài chiếm dụng
trong quá trình kích thích kinh tế hồi phục sau khủng hoảng bằng hệ
thống Ls chính sách thấp (NHTM tiến hành interest rate artbitrage).
Nhưng vẫn duy trì rất cao tỷ lệ vốn này trên tổng nợ và dùng để tài trợ
cho các khoản cho vay/tiền gửi trên thị trường tiền tệ – rất rủi ro. Tỷ
lệ này cũng hàm ý rằng, vấn đề thanh khoản của NHTM sẽ căng thẳng nếu NH
quá lệ thuộc vào nguồn vốn từ Liên NH, từ NHNN (OMO chẳng hạn) – đây là
rủi ro mang tính hệ thống rất cao (liên quan chằng chịt và tác động lan
tỏa) như tình hình đã xảy ra trong những cuộc đua Ls gần đây (SBV rút
mạnh trên OMO, NHTM lớn rút mạnh vốn trên LNH,…)
Chú ý Wholesale Funding ratio cao thì Short-term financing of long term loans ratio cũng cao.
Với mặt bằng NH hiện tại, tôi nghĩ có
thể đang tồn tại một vài hedge fund (hoặc trong quá trình hình thành).
Chú ý, đợt thực hiện CSTT thắt chặt lần này khá dài và quyết liệt, đất
nước chúng ta không liên quan (hoặc chưa) đến khả năng chi trả các khoản
nợ công, nên về cơ bản, dòng tiền từ CP và NHNN vẫn rất dồi dào, không
khiến các NHTM lo ngại mặc dù nhiều biểu hiện rủi ro tăng lên nhanh (như
nợ xấu của các khoản tín dụng công nghiệp, BĐS, CK, trong đó có lẽ BĐS
và CK có nợ xấu tăng nhanh nhất). Trong trường hợp xấu (có thể là xấu
nhất – worst case, hoặc bất lợi adverse scenario với lạm phát vẫn duy
trì ở mức rất cao như ở hiện tại (chưa nói cao hơn) và tăng trưởng duy
trì ở mức thấp (hoặc bị sụt giảm thêm chẳng hạn), thất nghiệp tăng lên,
thì trong vòng 6 tháng tiếp theo, nhiều khả năng nợ xấu và nợ mất khả
năng chi trả sẽ tăng gấp đôi/gấp ba theo tốc độ hiện tại, đặc biệt là
nhóm nợ BĐS, nhóm nợ vào các DN đặc thù có đòn bẩy cao và nợ vào DN hoạt
động dựa vào thị trường bên ngoài – như Châu Âu chẳng hạn. Điều đó có
nghĩa là nhiều NH sẽ mất hết vốn liếng và tiến tới mất khả năng chi trả
(chi trả chứ không phải là thanh khoản). Dạo này nghe nhiều vụ vỡ nợ rất
lớn, mà mỗi lần như thế là có một vài NH “đau tim”. VN thì NH không có
nắm các toxic asset theo nghĩa của nó, nhưng nếu đánh giá, có lẽ những
khoản trái phiếu doanh nghiệp cũng rất nguy hiểm – dù nó chưa được đưa
vào tín dụng.)
Chúng ta xem TCE và WFR của một số quốc
gia ở Châu Âu và Mỹ, trong đó, mấy cái mủi tên đỏ là đang căng thẳng,
hướng của mủi tên là hướng thay đổi của tỷ lệ này từ 2007 đến 2010. Hiện
tại mấy NH ở Bỉ và
TCE = Tổng Vốn CSH – Tài sản vô hình (intangible assets) – Giá trị thương hiệu (goodwill) – Cổ phần ưu đãi (preferred equity)
TCER = TCE/Tangible Assets.
Tham khảo đầy đủ tại đây
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét