Công
nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và
công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông -
nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội. Ngân
hàng thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính, hầu hết các mảng hoạt động của
khu vực ngân hàng đều gắn liền với việc tiếp nhận và xử lý thông tin, do
vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển bền vững và có hiệu quả của từng ngân hàng nói chung
và hệ thống ngân hàng nói riêng.
Thực
tế đã chứng minh nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý các
bài toán nghiệp vụ ngân hàng, mở rộng các dịch vụ điện tử đã góp phần
nâng cao năng lực quản lý, điều hành của NHNN, nâng cao chất lượng tiện
ích ngân hàng; quản trị điều hành và quản trị rủi ro của các TCTD, qua
đó mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc
kể từ khi đổi mới đến nay.
Ứng
dụng công nghệ hiện đại là phương tiện giúp các ngân hàng có thể đánh
bại các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những cơ hội giảm thiểu giấy tờ hành
chính, thay đổi sự phân bố nguồn nhân lực theo hướng giảm thiểu bộ phận
nghiệp vụ và tăng cường nhân lực cho các bộ phận dịch vụ chăm sóc khách
hàng, làm thay đổi cách thức kinh doanh và tăng chất lượng dịch vụ. Nếu
như trước đây, khi nói đến việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng, người ta
ngầm hiểu rằng để thực hiện nó phải đi đến các chi nhánh, phòng giao
dịch, tiếp xúc với các giao dịch viên hay nhân viên tín dụng…thì nay
khái niệm này đã thay đổi rất nhiều nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa
học công nghệ. Sự ra đời của dịch vụ ngân hàng điện tử đã mở ra những
kênh giao tiếp điện tử hiện đại giữa khách hàng và ngân hàng thương mại
như ATM, POS, Home Banking, Phone Banking, Mobile banking, Internet
Banking… Đây là sự phát triển tất yếu bởi cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, nhu cầu của khách ngày càng cao và khắt khe hơn.
1. Những dịch vụ ngân hàng thương mại hiện đại
Các
dịch vụ ngân hàng hiện đại có thể là các dịch vụ hoàn toàn mới hoặc
cũng có thể là những dịch vụ truyền thống nay được nâng cấp trên nền
tảng công nghệ hiện đại. Một số dịch vụ ngân hàng hiện đại đang được ứng dụng hiện nay:
- Thanh toán qua POS
(Point of sale): Đây là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thông
qua việc sử dụng kết nối giữa thiết bị đọc thẻ (Card reader) - còn gọi
là máy quẹt (cà) thẻ/ hoặc POS với thẻ ngân hàng. Qua đó, hệ thống tự
động trích tiền từ tài khoản của người mua trả cho người bán ngay. Sử
dụng hình thức này chủ thẻ có thể thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ, rút
tạm ứng tiền mặt tại bất kỳ điểm chấp nhận thẻ nào.
- Máy rút tiền tự động hay máy giao dịch tự động ATM
(Automated Teller Machine): Thiết bị ngân hàng giao dịch tự động với
khách hàng, thực hiện việc nhận dạng khách hàng thông qua thẻ ATM (thẻ
ghi nợ, thẻ tín dụng) hay các thiết bị tương thích, giúp khách hàng kiểm
tra tài khoản, rút tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán tiền hàng hóa
dịch vụ.
- Một các loại hình ngân hàng hiện đại khác:
(i) Home Banking: là sản phẩm có tính bảo mật cao nhờ hoạt động trên mạng thông tin liên lạc cục bộ giữa ngân hàng và khách hàng (mạng Intranet) cho phép khách hàng thực hiện hầu hết các giao dịch chuyển khoản với ngân hàng mà không cần đến ngân hàng.
Nhờ dịch vụ này, khách hàng tiết kiệm tối đa chi phí đi lại, chi phí
thời gian mà vẫn được đảm bảo thỏa mãn nhu cầu như kênh phân phối truyền
thống. Ngoài ra dịch vụ này còn cung cấp các thông tin về tỷ giá, lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ, các chương trình khuyến mại…
(ii) Phone Banking:
cung cấp thông tin ngân hàng qua điện thoại cố định. Khách hàng có thể
thực hiện các lệnh chuyển tiền, thanh toán hoá đơn dịch vụ, tìm hiểu các
thông tin về tỷ giá hối đoái, giá vàng, giá chứng khoán, các giao dịch
gần nhất và số dư tài khoản hiện tại của mình mọi lúc mọi nơi kể cả
ngoài giờ hành chính.
(iii) Mobile Banking: Để
thích ứng với sự phát triển của mạng thông tin di động, các ngân hàng
Việt Nam đã nhanh chóng đưa ra thị trường sản phẩm Mobile Banking – sản
phẩm cung cấp thông tin ngân hàng qua điện thoại di dộng. Không chỉ thực
hiện chức năng truy cập thông tin hay thực hiện các giao dịch thông
thường, khách hàng còn có
thể thực hiện chức năng thanh toán khi vào các siêu thị, cửa hàng hay
khi đi du lịch trong nước. Hơn thế nữa, với quy trình Mobile Banking,
khách hàng còn có thể nhận được thông tin từ ngân hàng bằng cách gửi tin
nhắn yêu cầu đến số điện thoại quy ước của ngân hàng để nhận lại tin
nhắn trả lời. Mỗi khi có giao dịch thực hiện trên tài khoản của mình,
tổng đài của ngân hàng sẽ tự động gửi tin nhắn thông báo đến điện thoại
di động của khách hàng.
(iv) Internet Banking: cung
cấp tự động các thông tin về sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua mạng
Internet. Để tham gia, khách hàng đăng ký với ngân hàng sử dụng dịch vụ
này để được cấp mật khẩu và tên truy cập. Với máy tính kết nối Internet,
ở bất cứ đâu hay vào bất cứ thời điểm nào, khách hàng cũng có thể truy
cập vào website của ngân hàng để được cung cấp thông tin, thực hiện các
giao dịch tài chính. Khách hàng cũng có thể truy cập vào các website
khác để mua hàng và thực hiện thanh toán thông qua ngân hàng. Tuy nhiên,
khác với các dịch vụ ngân hàng điện tử khác, Internet banking đòi hỏi
ngân hàng phải có một hệ thống bảo mật đủ mạnh để đối phó với các rủi ro
an ninh trên phạm vi toàn cầu. Điều này là tương đối khó khăn đối với
các ngân hàng Việt Nam vì xây dựng một hệ thống bảo mật như vậy là rất
tốn kém. Đây cũng là lý do vì sao dịch vụ này ở Việt Nam chưa thực sự
phát triển.
2. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong việc phát triển các dịch vụ ngân hàng
2.1. Về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam
Việc
không sử dụng tiền mặt trong lưu thông là một trong những thước đo quan
trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các dịch vụ ngân hàng
thương mại, bởi vì để thực hiện các giao dịch điện tử đều phải thông
qua hệ thống ngân hàng.
Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán trong vòng 10 năm qua tại Việt Nam giảm mạnh từ mức 23,7% năm 2001 xuống 14,6% năm 2008 ( tức là đã giảm gần
50% ) và năm 2009, 2010 vẫn duy trì được xu hướng tích cực này. Tuy tỷ
trọng tiền mặt hàng năm đã giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao hơn so với thế
giới, khi mà tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na
Uy là 1%, còn Trung Quốc là ở mức là 10%. Mặt khác, tốc độ giảm tỷ lệ
thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam
là chậm so với các nước khác, điển hình là Thụy Điển. Năm 1999, Thụy
Điển vẫn được coi là nền kinh tế tiền mặt khi tỷ lệ tiền mặt trên tổng
phương tiện thanh toán vượt mức 17%. Đến năm 2000, sau khi cuộc cách
mạng thanh toán không dùng tiền mặt được thực thi, tỷ lệ này chỉ còn
0,7%, một con số rất đáng khâm phục.
2.2. Tình trạng sử dụng thẻ thanh toán và tín dụng
Tính đến cuối năm 2010 cả thị trường Việt Nam có hơn 24 triệu thẻ tăng 12 lần (từ 2 triệu thẻ năm 2005); số lượng máy ATM tăng hơn
8 lần (từ 1.200 máy vào năm 2005 lên trên 11.137 máy); số thiết bị chấp
nhận thẻ POS tăng 3,7 lần (từ 10.000 POS năm 2005 lên 37.000 POS). Cũng trong năm 2010, Việt Nam đã có tới 825,5 triệu lượt giao dịch bằng thẻ, (năm 2005 chỉ là 20,2 triệu lượt và 609 triệu lượt năm 2009). Tuy nhiên nếu so sánh với nhiều nước phát triển trong và ngoài khu vực, con số này vẫn còn khá khiêm tốn (Bảng 1).
Bảng 1: Số máy ATM; POS và số thẻ trên đầu người ở một số quốc gia năm 2010
|
|||
Đơn vị: Máy
|
|||
|
|
|
|
|
ATM
|
POS
|
Số thẻ/người
|
Bỉ
|
15.500
|
124.900
|
1,26
|
Canada
|
60.200
|
630.500
|
1,41
|
Pháp
|
53.300
|
1.376,60
|
0,88
|
Đức
|
79.500
|
593.000
|
0,91
|
Italia
|
54.700
|
1.334.500
|
0,57
|
Nhật Bản
|
139.200
|
1.706.100
|
2,57
|
Singapore
|
2.000
|
83.900
|
2,35
|
Anh
|
63.900
|
1.095.000
|
1,49
|
Mỹ
|
406.100
|
5.175.000
|
3,34
|
Việt Nam
|
11.137
|
37.000
|
0,28
|
Nguồn: BIS
Nêu như mức độ truy cập tài chính được đo bằng số lượng các chi nhánh ngân hàng và các máy rút tiền tự động (ATM) trên 100.000 người thì ở Việt Nam, tính đến 2010, hệ thống các TCTD bao gồm 5 ngân hàng thương mại nhà nước với 1.405 chi nhánh cấp 1,
37 ngân hàng thương mại cổ phần với 1.830 sở giao dịch, chi nhánh và
văn phòng giao dịch. Như vậy tỷ lệ chi nhánh, phòng giao dịch trên
100.000 người dân trung bình vào khoảng 3,72. Con số này mặc dù khá
tương đồng với Philippine (khoảng xấp xỉ 4) nhưng vẫn thấp hơn Thái Lan
và Indonexia, và so với các nước phát triển OECD là một khoảng cách khá
xa (xấp xỉ 27). Mặt khác, mức độ phân bố các chi nhánh và phòng giao
dịch ở nước ta lại không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế
trọng điểm là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, gây ra mức độ khó khăn
khi truy cập thị trường tài chính ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân ở
những vùng kinh tế mới nổi hoặc vùng sâu, vùng xa.
Mặt
khác, Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ người sử dụng thẻ thấp trong khu
vực, hay nói cách khác, dân chúng Việt Nam vẫn rất chuộng tiền mặt. Tốc
độ tăng trưởng phát hành thẻ từ 2006 - 2010 đạt từ 150% - 200%, nhưng tỷ
lệ thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng thẻ ngân hàng chỉ đạt chưa đến 5%. Số
lượng giao dịch rút tiền mặt bằng thẻ qua hệ thống ATM chiếm đến 70 -
80% số lượng giao dịch thẻ thực hiện. Đa số công nhân viên chức chủ yếu
sử dụng thẻ để đến tháng rút tiền lương và ít có giao dịch khác. Những
người thỉnh thoảng mới giao dịch là công nhân và sinh viên, là đối tượng
mà nhiều ngân hàng đã ồ ạt mời chào mở thẻ miễn phí.
2.3. Các dịch vụ ngân hàng trực tuyến
Một
cuộc khảo sát do ComScore tiến hành trong năm 2010 ở 6 quốc gia gồm
Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Philippines, Hong Kong và Singapore cho
thấy, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ tăng hàng năm cao nhất
về số khách truy cập các trang web ngân hàng, chỉ đứng sau Indonesia với
mức tăng cao nhất 72%. Kết quả này có được trong bối cảnh các ngân hàng
ngày càng đầu tư mạnh vào website và khách hàng đang làm quen với hoạt
động thanh toán hóa đơn qua mạng. Số người sử dụng dịch vụ ngân hàng
trực tuyến như Home Banking, Phone Banking, Mobile banking và Internet
Banking… tại Việt Nam đã tăng 35% từ 710.000 lên 949.000 người trong năm
qua. Trong khi đó, con số này ở Indonesia là 72% (tăng từ 435.000 lên 749.000) và ở Philippines tăng 39% từ 377.000 lên 525.000.
Mặc
dù đạt được những tỷ lệ tăng trưởng ấn tượng nói trên, nhưng đây chỉ là
những con số mang tính tương đối. Thực tế là cả ba thị trường này đều
kém phát triển hơn các thị trường còn lại nên chỉ một sự tăng nhẹ về mức
tuyệt đối là đã đẩy tỷ lệ tăng tính theo phần trăm tương đối tăng lên
một mức rất cao. Xét về số tuyệt đối thì Malaysia là nước có số lượng
khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng qua mạng lớn nhất với 2,7 triệu
người trong tháng 1/2011, tăng 16% từ 2,4 triệu người sử dụng vào tháng
1/2010. Hồng Kông đứng ở vị trí thứ hai với số người dùng tăng 18% từ
1,3 lên 1,5 triệu trong năm qua. Tiếp theo là Singapore với 889.000 khách truy cập trong tháng 1/2011 so với 779.000 khách của cùng kỳ năm ngoái, tương đương mức tăng 14%.
Như vậy, nhìn chung việc đáp ứng dịch vụ ngân hàng đối với nền kinh tế ở Việt Nam vẫn còn hạn chế bởi các sản phẩm, dịch vụ của hệ thống ngân hàng Việt Nam
còn đơn điệu (Thu nhập phi lãi/Tổng thu nhập chỉ chiếm khoảng hơn 5%).
Trong chiến lược phát triển sản phẩm, các ngân hàng trong nước vẫn chỉ
tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực tín dụng. Các dịch vụ khác, nếu có,
cũng chỉ dừng lại ở dịch vụ thẻ rút tiền, các hoạt động thanh toán qua
tài khoản (ATM, POS), dịch vụ quản lý tài sản cho cá nhân thu nhập cao,
quản lý két sắt, quản lý thấu chi... vốn đã phổ biến trên thế giới lại
chưa được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam.
3. Nguyên nhân công nghệ thông tin chưa hỗ trợ đáng kể vào việc phát triển các dịch vụ ngân hàng thương mại
Thứ nhất là yếu tố hạ tầng kỹ thuật. Ở Việt Nam
hiện nay mạng lưới ATM và sự kết nối thanh toán thẻ qua POS của hệ
thống ngân hàng chưa hoàn chỉnh và thống nhất. Hiện mới chỉ có 8 ngân
hàng thương mại tham gia kết nối hệ thống các điểm chấp nhận thẻ trên
địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, nếu khách hàng sử dụng
thẻ của 8 ngân hàng này thì thẻ đó mới được chấp nhận thông qua các máy
quẹt thẻ lẫn nhau, còn thẻ của các ngân hàng khác thì chỉ được sử dụng
thông qua POS của ngân hàng đó (ngoại trừ thẻ tín dụng quốc tế). Vì vậy,
giả sử trong ví của khách hàng có thẻ và trong thẻ có tiền cũng khó tìm
được điểm quẹt thẻ phù hợp. Điều bất cập này gây rất nhiều phiền phức
cho chủ thẻ, là nguyên nhân chính khiến người dân vẫn ưu tiên sử dụng
tiền mặt.
Một
yếu tố khác nữa là vấn đề an toàn kỹ thuật. Có thể thấy hiện nay những
thông tin về máy ATM bị rò điện xuất hiện với tần suất khá cao trên báo
chí đã gây ra bức xúc và hoang mang trong dân cư. Vì vậy, chỉ khi nào
thực sự cần thiết, như đến kỳ lĩnh lương phải ra ATM rút tiền mặt thì
mọi người mới buộc phải giao dịch qua ATM, còn lại hạn chế tối đa việc
tiếp xúc với những máy này.
Thứ hai, các
đơn vị cung cấp dịch vụ kinh doanh cho khách hàng chưa mặn mà với việc
chấp nhận thanh toán qua thẻ. Các siêu thị, cửa hàng, trung tâm mua sắm,
khách sạn, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, xe... đều không ưa chuộng POS
cho dù các ngân hàng lắp đặt miễn phí thiết bị này. Điểm mấu chốt ở đây
là vấn đề không muốn công khai doanh thu để giảm bớt thuế thu nhập và
không muốn mất phí cho ngân hàng. Mặc dù theo thông lệ quốc tế, phí suất
mà các đơn vị này phải trả cho NH là 3% doanh số tiền quẹt thẻ, nhưng
ít đơn vị kinh doanh nào ở Việt Nam chấp nhận trả tỷ lệ này, họ muốn
miễn phí hoặc cùng lắm là trả từ 1% - 1,5% tổng doanh số. Hiện tại chỉ
có những đơn vị có giao dịch thanh toán cho người nước ngoài (khách sạn,
cửa khẩu...) là sẵn sàng chấp nhận sử dụng POS vì người nước ngoài có
thói quen dùng thẻ.
Thứ ba,
thói quen dùng tiền mặt của người dân. Tâm lý ngại trải nghiệm những
công nghệ mới cùng với sự mù mờ về thông tin đã khiến đa số người dân
vẫn ưa chuộng tiền mặt. Bản thân các chủ thẻ cũng ngại quẹt thẻ vì phải
nhớ password, có khi phải quẹt đi quẹt lại và quan trọng hơn là phải bỏ
thời gian tìm hiểu và học cách sử dụng thẻ. Thêm nữa, không thể phủ nhận
một điều là khi thực hiện mua sắm qua thẻ, người tiêu dùng rất khó ước
đoán lượng tiền chính xác mình đã chi ra nên thường phóng tay mua sắm.
Chỉ đến khi kiểm tra số dư trên thẻ, thấy lượng tiền hao hụt đáng kể họ
mới giật mình điều chỉnh. Ở đây có một khái niệm mới, đó là “cảm giác
tiêu tiền”, tức là cái mà chỉ khi chi tiêu bằng tiền mặt người ta mới ý
thức được rõ rệt lượng tiền đang “biến mất” khỏi ví như thế nào, cái mà
thẻ tín dụng không thể hiện được. Vì vậy, một số đông người cho rằng sử
dụng tiền mặt sẽ có tác dụng làm họ “hãm bớt” việc chi tiêu mua sắm, và
như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều tiền hơn. Một lý do nữa xuất phát từ vấn
đề phí. Mặc dù phí thanh toán đánh vào các đơn vị kinh doanh thẻ, nhưng
các đơn vị này lại “chia sẻ” một phần phí đáng kể cho khách hàng, vì
thế không khuyến khích người dân thanh toán bằng thẻ.
Thứ tư,
cách thức sử dụng phức tạp và sự thiếu đồng nhất trong dịch vụ. Nghiên
cứu về người tiêu dùng Việt Nam do Nielsen công bố vào tháng 8/2010 cho
thấy, trong số 600 người được khảo sát, chỉ có 1% sử dụng internet
banking. Các dịch vụ Internet Banking, Mobile Banking có phương thức thực hiện giao dịch quá phức tạp, điều
này đã làm cho các doanh nghiệp và cá nhân không mặn mà lắm với những
dịch vụ tiên tiến này. Ngoài ra, trong quá trình triển khai, đa dạng hóa
các kênh cung cấp dịch vụ mới như ATM, SMS, Call Center, Mobile
Banking, Internet Banking…, các ngân hàng Việt Nam đã tiến hành riêng
rẽ, thiếu kết nối. Ví dụ như 2 kênh giao dịch điện tử của ngân hàng là
Mobile Banking và Internet Banking hiện nay vẫn chưa nhất quán về dữ
liệu nên vẫn được tính như 2 mảng dịch vụ riêng. Điều này đưa đến cho
người sử dụng những trải nghiệm khác nhau khi họ sử dụng cùng một loại
giao dịch từ các kênh khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân mang
tính chất định tính khiến khách hàng không cảm thấy thoải mái khi sử
dụng các dịch vụ này.
Thứ năm,
nguồn lực hạn chế. Mặc dù rất muốn đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin vào các dịch vụ của mình, nhưng thực tế là, vốn điều lệ của các ngân
hàng Việt Nam còn hạn hẹp đã hạn chế khả năng trang bị và ứng dụng các
công nghệ hiện đại. Nhìn chung, chỉ những ngân hàng lớn mới đủ quyết tâm
và tiềm lực để thực hiện việc này. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về trình
độ công nghệ giữa các ngân hàng còn khá cao dẫn đến việc các ngân hàng
khó kết nối, phối hợp với nhau trong việc cung cấp các sản phẩm nhất
quán, gây khó khăn trong tương tác khách hàng.
Thứ sáu,
công tác bảo mật. Công nghệ càng hiện đại bao nhiêu thì vấn đề bảo mật
càng trở nên cấp thiết bấy nhiêu. Cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử
đồng nghĩa với việc quản trị rủi ro trở thành một thách thức với các
ngân hàng. Một khi chưa đảm bảo đủ các biện pháp phòng chống gian lận và
vấn đề bảo mật thông tin, các ngân hàng sẽ vẫn dè dặt khi tung ra các
gói dịch vụ mới tiên tiến hay thậm chí là giới hạn các dịch vụ này để
đảm bảo các giao dịch trong tầm kiểm soát. Về phía khách hàng, do niềm
tin vào sự an toàn của việc sử dụng các dịch vụ điện tử chưa cao, nên
những giao dịch có giá trị lớn vẫn thường được thực hiện qua các kênh
dịch vụ truyền thống.
4. Một vài giải pháp
Việc
ứng dụng CNTT ở các ngân hàng thương mại phải được thực hiện trên nền
tảng công nghệ chuẩn, thường xuyên nâng cấp, cập nhật nhằm tăng cường tính an toàn, bảo mật của hệ thống song song với việc thiết lập một cơ chế dự phòng linh hoạt. Cụ thể:
-
Tập trung xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất (với các phần mềm
hỗ trợ hoạt động kinh doanh, quản lý), đảm bảo quy trình hoạt động xuyên
suốt trong toàn hệ thống. Nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp,
giảm thiểu được các nguy cơ về rủi ro trong hoạt động kinh doanh và hỗ
trợ việc đưa ra quyết định nhanh chóng, chính xác;
-
Triển khai và áp dụng hệ thống Core Banking nhằm phát triển, mở rộng
các sản phẩm dịch vụ, kiểm soát an toàn hoạt động và nâng cao hiệu quả
kinh doanh;
-
Tiếp tục đầu tư, hoàn thiện hệ thống CNTT phục vụ phát triển các dịch
vụ ngân hàng điện tử hiện đại (nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc
tế…);
-
Hoàn thiện hệ thống các phần mềm quản trị chuyên ngành khác (phần mềm
Quản trị quan hệ khách hàng CRM, phần mềm Quản trị rủi ro Risk
Management…;
-
Xây dựng hệ thống CNTT hiện đại, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, tạo
thế mạnh cạnh tranh riêng thông qua việc cạnh tranh bằng công nghệ -
Trong đó tập trung triển khai các hệ thống tiện ích phục vụ khách hàng
như: Xây dựng trung tâm chăm sóc khách hàng Contact Center; Cổng thông
tin điện tử tích hợp các dịch vụ điện tử trên mạng Internet (qua Website
của từng đơn vị)…;
- Nâng cao năng lực xử lý của hệ thống mạng LAN, WAN, thiết bị chuyển mạch…; nâng cấp hệ thống an ninh, bảo mật ở mức cao…;
-
Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ IT chuyên nghiệp, có trình độ nghiệp
vụ cao, đáp ứng nhu cầu quản trị vận hành và làm chủ các hệ thống công
nghệ hiện đại. Trong đó tập trung đào tạo nâng cao trình độ, khảo sát
công nghệ hiện đại trong nước và quốc tế, thực hiện các chế độ đãi ngộ…
Ngoài
ra, mỗi ngân hàng cần tập trung nguồn vốn – nhân lực – kỹ thuật nghiên
cứu hoặc thuê tư vấn quốc tế để xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên trong
việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ mở rộng khả năng tiếp cận các
dịch vụ của chính ngân hàng mình. Chẳng hạn ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam BIDV, đã xác định muc tiêu trong 10 năm tới là phát triện
hệ thống ngân hàng điện tử làm nòng cốt trong phát triển hoạt động ngân
hàng bán lẻ với các sản phẩm vượt trội, tiết kiệm thời gian, chi phí,
nguồn lực và khoảng cách về địa lý. Theo đó BIDV cũng sẽ từng bước thành
lập, liên kết bộ phận nghiên cứu với các ngân hàng tiên tiến tại các
quốc gia phát triển tập trung nghiên cứu phát triển, nâng cấp sản phẩm
dịch vụ tạo vị thế định hướng trên thị trường nội địa, tiến tới phát
triển sang các thị trường quốc tế có hiện diện thương mại của BIDV. Ngân
Hàng TMCP Sài Gòn - SCB cũng quyết tâm đưa CNTT trở thành công cụ đắc
lực trong công tác quản trị điều hành ngân hàng thông qua qua việc xây
dựng một hệ thống CNTT hiện đại, từ đó góp phần phát triển sản phẩm dịch
vụ, nâng cao hiệu quả phục vụ khách hàng. SCB sẽ từng bước nâng cấp hệt
hống phần cứng cũng như đường truyền với cấp độ cao và ổn đinh. Bên
cạnh đó, ngân hàng này cũng sẽ áp dụng nhiều hơn việc sử dụng các phần
mềm có thể phát hiện và ngăn chặn sự tấn công từ bên ngoài (như
anti-virus, anti-spyware, Web filtering, deep inspection, vpn...) đảm
bảo tính năng bảo mật cao cho các sản phẩm dịch vụ công nghệ ngân hàng.
Rõ
ràng, công nghệ chính là một nhân tố tạo dựng một nền móng vững chắc
giúp các ngân hàng Việt Nam trụ vững trong cuộc cạnh tranh ngày càng
khốc liệt thông qua việc cải thiện năng lực cạnh tranh, mở rộng khả năng
tiếp cận các sản phẩm dịch vụ tới khách hàng từ đó tăng khả năng chiếm
thị phần của các ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới,
một hành trang công nghệ tiến tiến sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng
phát triển bền vững hơn nhờ việc đa dạng hóa các dịch vụ, tối đa hóa lợi
ích, xây dựng lợi thế cạnh tranh riêng biệt, tiếp tục đi lên cùng các
nước bạn trong khu vực.
Đỗ Thị Bích Hồng - VCLNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét