Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2011

Kinh tế Việt Nam 2010: Một năm nhìn lại


Nhìn lại bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam trong năm 2010 để đánh giá triển vọng trong năm 2011.

TÓM TẮT NHẬN ĐỊNH
- Tăng trưởng kinh tế khả quan trong năm 2010. Đáng lưu ý là sản xuất công nghiệp phục hồi ấn tượng, tăng trưởng gần 14%. Tuy vậy, chất lượng tăng trưởng vẫn đang ở mức thấp. Đầu tư khu vực nhà nước giúp duy trì đà tăng trưởng trong năm 2010.

- Xuất khẩu tăng mạnh bất chấp xuất khẩu dầu thô giảm. Tăng trưởng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở mức cao, đạt gần 40%. Nhập khẩu cũng tăng mạnh trở lại do nhu cầu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Áp lực lạm phát gia tăng gây bất ổn trong nền kinh tế. Nguyên nhân do cộng hưởng các yếu tố như thiên tai, giá cả hàng hóa thế giới tăng, tiền đồng bị mất giá và cung tiền tăng mạnh.
- Tiền đồng bị mất giá tổng cộng 11.17% từ tháng 11/2009. Nguyên nhân chủ yếu là tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn, lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm và tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng.
- Tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 có thể đạt 27%, tăng trưởng cung tiền ở mức 25%. Đáng lưu ý là tăng trưởng tín dụng ngoại tệ cao hơn nhiều so với nội tệ. Hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn khi huy động vốn.
- Lãi suất duy trì ở mức rất cao với nguyên nhân chủ yếu là do lạm phát cao vượt dự kiến, chính sách tiền tệ thắt chặt, đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh và sức ép từ các quy định, đặc biệt là Thông tư 13.
- Hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn trước bối cảnh kinh tế chưa ổn định, yêu cầu của Thông tư 13 và tăng vốn điều lệ tối thiểu lên 3,000 tỷ đồng.
NỘI DUNG CHI TIẾT
Tăng trưởng kinh tế khả quan trong năm 2010. Đáng lưu ý là ngành công nghiệp phục hồi ấn tượng, tăng trưởng gần 14%
Mặc dù chịu tác động mạnh bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ khá cao và cải thiện dần qua các quý. GDP trong 9 tháng đầu năm tăng 6.52%, và dự báo có thể đạt được mức tăng 6.7% cho cả năm 2010.
Cụ thể, tăng trưởng GDP quý 3 đã đạt 7.2%, cao hơn nhiều so với mức 5.83 và 6.4% của quý 1 và quý 2. Như vậy, năm 2010 tăng trưởng GDP  của Việt Nam đã được cải thiện khá nhiều so với mức 5.3% của năm 2009. Tăng trưởng GDP của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á nhưng thấp hơn so với Trung Quốc và Ấn Độ.
Điểm đáng lưu ý là ngành công nghiệp phục hồi ấn tượng. Khu vực công nghiệp và xây dựng 9 tháng năm 2010 tăng 7.29%, cao hơn mức 4.64% của cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trong 11 tháng đầu năm 2010, sản xuất công nghiệp tăng trưởng 13.8%, gần gấp đôi so với mức tăng 7.3% cùng kỳ năm 2009.
Đà phục hồi cũng có thể nhận thấy ở ngành dịch vụ, với mức tăng trưởng trong 9 tháng đạt 7.24%, cao hơn nhiều so với mức 5.9% của cùng kỳ năm 2009. Đáng chú ý là doanh số bán lẻ 11 tháng tăng đến 14.7%, sau khi loại trừ tăng giá. Sự phục hồi mạnh mẽ của ngành dịch vụ còn nhờ vào kết quả khả quan của ngành du lịch, thương mại và dịch vụ tài chính.
Trong khi đó, tăng trưởng khu vực nông nghiệp 9 tháng năm 2010 đạt 2.89%, so với mức 1.58% của cùng kỳ năm trước.
Chất lượng tăng trưởng vẫn đang ở mức thấp. Vốn đầu tư đóng góp 44.62% cho tăng trưởng, cao nhất từ trước tới nay. Đầu tư khu vực nhà nước giúp duy trì đà tăng trưởng trong năm 2010
Mặc dù tăng trưởng GDP cao nhưng chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam lại rất thấp. Điều này thể hiện qua hệ số ICOR dự báo lên đến 6.3 lần trong năm 2010, và tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào dòng vốn đầu tư và chi tiêu của khu vực công. Việc tái cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng chưa có nhiều chuyển biến trong năm 2010. Điều này đã gây nên những lo ngại về tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Trong 9 tháng đầu năm tổng đầu tư tăng 19.8%, tỷ lệ Đầu tư/GDP lên tới 44% và ước tính khoảng 42-43% trong năm 2010. Tỷ lệ đầu tư này cao hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á khác, hiện chỉ ở 15-20%.
Với tỷ lệ đầu tư này thì ICOR trong 9 tháng đã lên tới 6.78 lần, cao hơn đáng kể so với Trung Quốc và Ấn Độ hiện chỉ 3 - 4 lần.
Ước tính năm 2010, vốn đầu tư đóng góp 44.62% cho tăng trưởng và đây là mức đóng góp cao nhất từ trước tới nay. Trong khi đó, tiêu dùng khu vực tư nhân đóng góp 66.15% cho tăng trưởng GDP, tiêu dùng của khu vực nhà nước đóng góp khoảng 7%, thâm hụt thương mại chiếm 17% GDP.
Đầu tư của khu vực nhà nước trong 9 tháng tăng đến 30.2% so với năm 2009, chiếm 37.6% tổng đầu tư của nền kinh tế. Trong khi đó, vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng 17%, chiếm 36.8%; khu vực đầu tư nước ngoài tăng 10.7%, chiếm 25.6%.
Như vậy, việc đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh đóng góp một phần quan trọng để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2010.
Xuất khẩu tăng mạnh bất chấp xuất khẩu dầu thô giảm. Tăng trưởng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở mức cao, đạt gần 40%
Mặc dù kinh tế thế giới chưa thực sự phục hồi nhưng xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng.
Xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 64.28 tỷ USD, tăng 24.5% so với cùng kỳ năm trước. Nếu không tính dầu thô, giá trị xuất khẩu các mặt hàng còn lại tăng 30%. Kim ngạch xuất khẩu ước tính cho cả năm 2010 có thể đạt 70.5 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay.
Hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực là Dệt may và Giày dép đứng đầu trong những mặt hàng xuất khẩu, với kim ngạch tương ứng đạt 10 tỷ và 4.5 tỷ USD lần lượt tăng 22.6% và 25.3% so với cùng kỳ năm trước.
Thủy sản đứng thứ 3 với kim ngạch đạt 4.49 tỷ USD, tăng 16.3% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng khác có mức tăng trưởng cao là Máy móc, thiết bị, dụng cụ đạt kim ngạch 2.7 tỷ USD, tăng 51.3%; Cao su đạt 2 tỷ USD tăng 92.8%.
Khu vực vốn đầu tư nước ngoài, không tính hoạt động xuất khẩu dầu thô, đã tăng trưởng đến 40%; trong khi đó, khu vực trong nước tăng 21.6% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu cũng tăng mạnh trở lại do nhu cầu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điểm tích cực là kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị đứng đầu danh sách
Nhập khẩu trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 74.9 tỷ USD, tăng 19.8% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực vốn đầu tư trong nước chỉ tăng 8%, trong khi khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng đến 39.9%.
Điều này cho thấy sự phục hồi mạnh của nhập khẩu phần lớn do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập các nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu như bông, vải, nguyên phụ liệu sản xuất khác.
Mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu cao nhất là Máy móc, thiết bị với giá trị 12.36 tỷ USD, tăng 7.6%, cho thấy nhu cầu đầu tư và mở rộng sản xuất vẫn tăng khá. Sắt thép đứng thứ 2 với kim ngạch xuất khẩu đạt 5.3 tỷ USD, tăng 14.7% so với cùng kỳ.
Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh như sợi dệt, sản phẩm chất dẻo, gỗ và nguyên phụ liệu gỗ, nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép.
Nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 24% tổng kim ngạch nhập khẩu. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
Tính trong 11 tháng đầu năm tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam và Trung Quốc đã đạt 21.3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam đạt 5.4 tỷ USD, tăng 45%, nhập khẩu đạt 15.9 tỷ USD, tăng 22,8%.
Kim ngạch thương mại với các nước ASEAN đạt 21.5 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 8.4 tỷ USD, tăng 18%, nhập khẩu đạt 13.1 tỷ USD, tăng 22%.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt 13.8 tỷ USD, với 8.8 tỷ USD xuất khẩu và 5 tỷ USD nhập khẩu.
Xuất khẩu sang Hòa Kỳ trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 11.6 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Có thể thấy Trung Quốc đang dần trở thành đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Năm 2010, nhập khẩu từ Trung Quốc đã chiếm tới 24% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc đang cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, rõ ràng là Việt Nam rất khó có thể tiếp cận được công nghệ nguồn, khi nhập khẩu máy móc thiết bị từ quốc gia này.
Thâm hụt thương mại cao và mất cân đối cán cân thanh toán khiến cân bằng nền kinh tế thấp
Thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn ở mức rất cao và là một trong những yếu tố gây nên những bất ổn vĩ mô.
Năm 2008, thâm hụt thương mại lên tới đỉnh điểm 18 tỷ USD, bằng gần 20% giá trị GDP. Trong năm 2009 và 11 tháng đầu năm 2010, thâm hụt thương mại giảm xuống còn 12.84 tỷ USD và 10.5 tỷ USD.
Như vậy, tuy thâm hụt thương mại năm đã giảm xuống so với các năm 2007 và 2008 nhưng đây vẫn là mức rất cao so với quy mô của nền kinh tế Việt Nam.
Điểm đáng lưu ý là Việt Nam chủ yếu nhập siêu từ Trung Quốc và các nước ASEAN; trong khi đó lại xuất siêu vào các nước phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản.
Thâm hụt cán cân thương mại lớn, cùng với lợi nhuận từ các khoản đầu tư được chuyển ra ngày càng lớn khiến cho thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai (Current Account Deficit, CAD) của Việt Nam luôn ở mức rất cao. CAD so với GDP từ mức chỉ có 0.3% vào năm 2006 đã tăng vọt mức 9.8% năm 2007 và 11.9% năm 2008. Năm 2009 giảm xuống còn 8% GDP và dự báo CAD vào khoảng 7.5% GDP trong năm 2010.
Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI, ODA và kiều hối. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế thế giới làm cho các dòng vốn này vào Việt Nam thiếu ổn định.
Ngoài ra, nền kinh tế phụ thuộc quá lớn vào dòng vốn đến từ bên ngoài khiến sự cân bằng này trở nên rất mong manh. Năm 2009 và 2010, việc tỷ giá luôn biến động rất mạnh có nguyên nhân quan trọng là do áp lực thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai.
Áp lực lạm phát gia tăng gây bất ổn trong nền kinh tế. Nguyên nhân do cộng hưởng các yếu tố như thiên tai, giá cả hàng hóa thế giới tăng, tiền đồng bị mất giá và cung tiền tăng mạnh. Ngoài ra, lạm phát ở Việt Nam còn có nguyên nhân cơ cấu và khó có thể thay đổi đáng kể trong ngắn hạn
Tính trung bình, lạm phát trong các tháng 9, 10 và 11 vừa qua tăng mạnh nhất so với cùng kỳ 20 năm gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm trước tăng vọt từ mức 8.18% vào tháng 8 đã lên tới 11.09% vào tháng 11. Lũy kế trong 11 tháng, CPI đã lên tới 9.58% và lạm phát năm 2010 gần như chắc chắn sẽ cao hơn hai con số. Đây là mức lạm phát cao nhất kể từ năm 1992 đến nay, ngoại trừ năm 2007 và 2008.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát tăng mạnh trong 3 tháng gần đây là do cộng hưởng của hàng loạt các yếu tố như thiên tai ở nhiều tỉnh Miền Trung; giá cả hàng hóa thế giới tăng; tiền đồng bị mất giá và cung tiền tăng mạnh.
Kinh tế Việt Nam có độ mở cao, tổng giá trị xuất nhập khẩu lớn hơn 150% GDP đã làm cho giá cả hàng hóa trong nước nhạy cảm hơn với giá hàng hóa thế giới. Việc đồng nội tệ mất giá liên tục đã làm giá cả nhiều mặt hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam chịu sức ép tăng tương ứng. Giá hàng hóa, nguyên liệu, dầu thô của thế giới cũng gia tăng trong thời gian gần đây.
Trên đây là những nguyên nhân có tính chất ngắn hạn và nó không thể giải thích được cho việc lạm phát ở Việt Nam liên tục cao trong nhiều năm qua và vượt trội so với hầu hết các nước trên thế giới. Chẳng hạn lạm phát của Việt Nam trung bình tăng 8.8% trong 10 năm qua, trong khi đó Thái Lan chỉ tăng 2.7%, Trung Quốc tăng 2.1%.
Nguyên nhân khiến lạm phát cao, kéo dài ở Việt Nam là do cơ cấu và nền kinh tế vận hành kém hiệu quả.
Tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế trong 10 năm trở lại đây trung bình khoảng 41% GDP, trong khi đó các quốc gia khác chỉ từ 25 - 30% GDP. Điều đáng lưu ý là với tỷ lệ đầu tư cao như vậy nhưng tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt trung bình khoảng 7%, đưa hệ số ICOR trong 10 năm qua lên tới 5.71 lần. Trong 9 tháng đầu năm 2010, tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế lên tới 44.19% GDP, hệ số ICOR lên tới 6.78 lần.
Với tỷ lệ đầu cao như vậy, nền kinh tế luôn đòi hỏi một tốc độ tăng trưởng tín dụng và cung tiền rất cao. Tăng trưởng tín dụng trong 10 năm qua luôn duy trì quanh mức 30%, tăng trưởng cung tiền cũng ở mức tương ứng. Tỷ lệ này cao hơn mức trung bình khoảng 10 - 15% ở các nước trong khu vực. Dự kiến năm 2010, tín dụng tăng 25 - 27%, cung tiền M2 tăng khoảng 25%.
Tăng trưởng tiền lưu thông trong nền kinh tế vượt trội so với tăng trưởng hàng hóa sản xuất ra là nguyên nhân chính khiến lạm phát cao và kéo dài ở Việt Nam. Đây là nguyên nhân có tính cơ cấu và khó có thể có sự thay đổi đáng kể trong ngắn hạn.
Tiền đồng bị mất giá tổng cộng 11.17% từ tháng 11/2009. Nguyên nhân chủ yếu là tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn, lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm và tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng
Kể từ năm 2008 đến nay, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng của nền kinh tế. Tỷ giá USD/VND từ mức khoảng 16,500 vào cuối năm 2006 đã tăng vọt lên mức 21,500VND/USD vào những tháng cuối năm 2010. Cũng trong khoảng gian này, gần như luôn có sự chênh lệch khá lớn giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá giao dịch thực tế.
Chỉ trong vòng 10 tháng tính đến ngày 18/8/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải 3 lần điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng, tăng tổng cộng 11.17% lên mức 18,932VND/USD. Tỷ giá trần hiện nay được niêm yết là 19,500 VND/USD, nhưng tỷ giá trên thị trường tự do lại lên đến 21,500 VND/USD.
So với các nước trong khu vực, tiền đồng đang bị mất giá mạnh ngay cả khi tính theo tỷ giá chính thức. Cụ thể, VND mất giá hơn 20% so với đồng Yên của Nhật Bản, hơn 17% so với đồng tiền của Thái Lan và Malaysia, gần 8% so với đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc.
Chúng tôi cho rằng những nguyên nhân sau đã khiến cho đồng nội tệ bị mất giá mạnh:
Tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn: Bản chất là một nền kinh tế nhập siêu khiến cho cán cân tài khoản vãng lai (current account) hàng năm thâm hụt hàng chục tỷ USD, lên tới 10 - 12% GDP trong những năm gần đây.
Mức thâm hụt này được bù đắp bởi cán cân tài khoản vốn gồm vốn đầu tư trực tiếp (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI), vốn vay (ODA, vay thương mại của Chính phủ và doanh nghiệp) hàng năm từ 12 - 14% GDP.
Tuy nhiên, cần lưu ý là sự cân bằng này khá mong manh trước các biến động bất lợi vĩ mô trong nước và thế giới. Do vậy, việc thâm hụt tài khoản vãng lai lớn vẫn là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho tỷ giá biến động mạnh.
Lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm: Thống kê chính thức cho thấy tổng cán cân tài khoản vãng lai và tài khoản vốn vẫn đang thặng dư. Tuy nhiên, sự thiếu ổn định của tỷ giá và lạm phát cao khiến lòng tin của người dân vào đồng nội tệ bị suy giảm. Một khi lòng tin suy giảm thì người dân có khuynh hướng tích trữ ngoại tệ và các tài sản khác. Điều này lại tiếp tục làm gia tăng sự bất ổn của tỷ giá.
Tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng: Cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn bị thâm hụt là do khoản mục sai số tăng mạnh. Điều này cho thấy tình trạng đô la hóa của nền kinh tế vẫn đang gia tăng. Ngoại tệ được tích trữ trong dân, trên tài khoản ở nước ngoài và sử dụng để thanh toán các giao dịch tăng lên. Thêm vào đó, dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ tăng mạnh do chênh lệch lớn giữa lãi suất ngoại tệ và nội tệ cũng gây sức ép lên cầu ngoại tệ khi những khoản vay này đáo hạn.
Tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 có thể đạt 27%, tăng trưởng cung tiền ở mức 25%. Đáng lưu ý là tăng trưởng tín dụng ngoại tệ cao hơn nhiều so với nội tệ. Hệ thống ngân hàng khó huy động vốn, nhưng điểm tích cực là tốc độ tăng trưởng tiền gửi vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng
Tín dụng tăng trưởng bùng nổ vào năm 2009 cùng với gói hỗ trợ 4% lãi suất và chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN đã làm cho lãi suất trong nền kinh tế xuống mức khá thấp. Kết thúc năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng tới 37% và đã gây áp lực mạnh lên lạm phát.
Sang năm 2010, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng dưới 25%. Tăng trưởng tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2010 đã đạt 22.5%, thấp hơn nhiều so với mức 33.29% cùng kỳ năm trước nhưng cũng là mức rất cao. Đáng chú ý là tín dụng bằng ngoại tệ tăng 52.6%, còn bằng nội tệ chỉ tăng 14.6%. Dự kiến tăng trưởng cả năm sẽ đạt mức 27%, và tăng trưởng cung tiền cũng dự kiến đạt 25%, vượt mục tiêu đặt ra đầu năm.
Tăng trưởng tín dụng, cung tiền năm 2010 đã giảm so với những năm trước, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các nước khác. Tăng trưởng cung tiền cao đã tạo áp lực lớn lên lạm phát và tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Trong khi đó, tăng trưởng tiền gửi đã chậm lại trong những tháng gần đây. Trong 10 tháng đầu năm 2010, dư nợ tiền gửi tăng mới chỉ đạt 22.8%. Tuy vậy, mức tăng này vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng, và là một diễn biến khá tích cực vì trong 3 năm gần đây tăng trưởng huy động thường thấp hơn so với cho vay.
Hiện tại, các ngân hàng đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn dù lãi suất huy động đã lên rất cao. Do vậy, các ngân hàng sẽ tiếp tục gặp nhiều trở ngại để đảm bảo những quy định của Thông tư 13.

Lãi suất duy trì ở mức rất cao gây trở ngại cho hoạt động của doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do lạm phát cao vượt dự kiến, chính sách tiền tệ thắt chặt, đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh và sức ép từ các quy định, đặc biệt là Thông tư 13

Một loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng đã đưa lãi suất trong nền kinh tế tăng cao trong suốt năm 2010. Trong những tháng đầu năm, lãi suất cho vay phổ biến 14 - 17%, lãi suất huy động khoảng 12%. Cuối năm 2010, cuộc đua lãi suất lại bùng phát trở lại trước áp lực lạm phát và các quy định của Thông tư 13. Lãi suất huy động hiện nay đã lên tới 14 - 16%, thậm chí có ngân hàng đã huy động với lãi suất lên đến 17 - 18%. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 19 - 20%.
Trước hiện trạng này, NHNN đã đồng thuận với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) về mức lãi suất huy động VND, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm.
Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất, NHNN đã phải can thiệp bằng biện pháp hành chính.
Nguyên nhân của việc lãi suất tăng cao
Lạm phát cao vượt dự kiến: Lạm phát cao đã khiến người dân không còn muốn cất giữ tiền mặt, thay vào đó đầu tư các tài sản có tính thanh khoản tốt và thường tăng theo lạm phát là USD và vàng. Vì vậy, các ngân hàng không những khó huy động vốn mà tiền tiết kiệm được rút ra để đầu tư vào các tài sản có tính an toàn cao hơn.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: Ngày 5/11, NHNN quyết định điều chỉnh các lãi suất thêm 1%, lãi suất cơ bản lên 9%, lãi suất tái cấp vốn lên 9%, lãi suất tái chiết khấu lên 7%. Động thái này cho thấy NHNN đang sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để phòng chống lạm phát. Trong thời gian qua, NHNN cũng đã hạn chế cung tiền qua thị trường mở.
Đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh: Năm 2010, dù lãi suất đứng ở mức rất cao nhưng đầu tư trong nền kinh tế vẫn lên tới 43% GDP. Điều này cho thấy thực tế là lãi suất cao không làm giảm tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế. Nguyên nhân là do đầu tư khu vực nhà nước tăng lên rất mạnh và đã kéo mặt bằng lãi suất lên cao.

Sức ép từ Thông tư 13: Thông tư 13 yêu cầu nâng hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR từ 8% lên 9% và quy định số tiền cho vay không quá 80% huy động được. Trước khi có quy định hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều có hệ số CAR chưa đạt đến 9% và dư nợ cho vay lớn hơn vốn huy động.
Ngoài ra, quy định tại Thông tư 13 còn nâng hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán từ 100% lên 250%. Do vậy, các ngân hàng đã phải hạn chế cho vay và tăng cường huy động vốn để đáp ứng được quy định trên. Đây là một nguyên nhân khá quan trọng đẩy nhu cầu huy động vốn lên cao và buộc các ngân hàng phải hạn chế cho vay.
Hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn trước bối cảnh kinh tế chưa ổn định, yêu cầu của Thông tư 13 và tăng vốn điều lệ tối thiểu lên 3,000 tỷ đồng
Trong những năm gần đây, hệ thống tài chính của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều ngân hàng mới được thành lập, trong đó có 12 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, quá trình phát triển nhanh này cũng mang đến những thách thức không nhỏ cho sự ổn định của hệ thống tài chính.
Tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng luôn rất cao, các chi nhánh không ngừng được mở rộng, nhưng hệ thống quản trị không phát triển tương ứng, khiến rủi ro hệ thống ngân hàng gia tăng.
Năm 2010, hệ thống ngân hàng chịu sức ép bởi việc phải thực hiện một loạt chính sách theo quy định của NHNN. Thông tư 13 quy định các ngân hàng phải tăng hệ số an toàn vốn tối thiếu (CAR) từ 8% lên 9%, đồng thời nâng hệ số rủi ro của các khoản cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán lên 250%. Cũng theo thông tư này, các ngân hàng chỉ được phép sử dụng tối đa 80% vốn huy động để cho vay.
Năm 2010 cũng là hạn chót các ngân hàng thương mại buộc phải tăng vốn điều lệ tối thiểu lên 3,000 tỷ đồng. Do một loạt nguyên nhân, đến giữa tháng 12/2010 vẫn còn gần một nửa trong số 23 ngân hàng từ đầu năm 2010 chưa tăng đủ vốn điều lệ theo quy định.
NHNN đã phải lùi thời điểm tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thêm 1 năm, đến ngày 31/12/2011. Quyết định này đã giải tỏa được áp lực tăng vốn đang đè nặng lên các ngân hàng chưa tăng đủ vốn. Tuy nhiên, quyết định này cũng cho thấy sự thiếu nhất quán trong các chính sách của NHNN và hiện trạng khó khăn của hệ thống tài chính.
Hiện nay, với việc lãi suất tăng cao và sự phục hồi chậm của nền kinh tế các ngân hàng phải đối mặt với tỷ lệ nợ xấu cao. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) tăng lên đến 2.4% vào tháng 8/2010, từ mức 1.9% vào cuối năm 2009. Ngoài ra, khoản nợ hơn 20,000 tỷ đồng của khoảng 10 ngân hàng thương mại trong nước cho Vinashin vay cũng có nguy cơ biến thành nợ xấu bất kỳ lúc nào. Như vậy, có thể thấy nợ xấu vẫn là mối lo ngại thực sự đối với các ngân hàng Việt Nam.

Mới đây, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã hạ bậc tín nhiệm của 6 ngân hàng thương mại Việt Nam. Đây  là lần thứ 2 trong năm 2010, Moody’s hạ mức tín nhiệm của một số ngân hàng Việt Nam do rủi ro của các ngân hàng đang tăng lên.
Hồ Bá Tình, Phòng Nghiên cứu Vietstock
Lần cập nhật cuối ( WEDNESDAY, 29 DECEMBER 2010 09:49 ) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét