Thứ Tư, 19 tháng 10, 2011

Giao dịch ngoại tệ trong NHTM


I.              TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI TỆ
  1. Tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng
Kinh doanh ngoại tệ là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. Nghiệp vụ này một mặt mua và bán ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho DN, đặc biệt là các DN có hoạt động XNK. Mặt khác, nghiệp vụ này mang lại thu nhập “phi tín dụng” cho ngân hàng, góp phần đa dạng hóa nguồn thu nhập của NH.
Ở NHTM, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ được thực hiện bởi phòng kinh doanh ngoại tệ có thể chia thành 2 bộ phận: bộ phận kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế và bộ phận kinh doanh ngoại tệ với KH nội địa. Nhân viên phòng kinh doanh ngoại tệ, tùy theo mục đích kinh doanh có thể đóng vai trò là Nhà kinh doanh (dealer), nhà môi giới (broker), nhà đầu cơ (speculator) hay nhà kinh doanh chênh lệch giá (arbitrageur).
  • Các nhà kinh doanh (dealers) – là những người tham gia nhằm mua bán thường xuyên trên thị trường nhằm kiếm lời từ chênh lệch giữa giá bán ra và giá mua vào ngoại tệ. Mục tiêu của nhà kinh doanh là kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Khác với nhà môi giới, nhà kinh doanh có tham gia mua bán nên chấp nhận rủi ro trong TH mua ngoại tệ vào nhưng sau đó ngoại tệ ấy xuống giá hoặc bán ngoại tệ ra nhưng sau đó ngoại tệ ấy lên giá.
  • Các nhà môi giới (brokers) – là những người tham gia trên thị trường với tư cách là trung gian trong các giao dịch mua bán hoặc mua bán thay cho người khác nhằm thu hoa hồng qua từng chuyến giao dịch. Mục tiêu của nhà môi giới là hoa hồng thu được qua từng chuyến giao dịch. Khác với nhà kinh doanh, nhà môi giới chỉ là trung gian chứ không tham gia mua bán nên không phải chấp nhận rủi ro.
  • Các nhà đầu cơ (Speculators) – là những người tham gia thị trường với hy vọng tìm kiếm lợi nhuận nếu sự thay đổi tỷ giá theo đúng dự đoán đồng thời sẵn sàng chấp nhận rủi ro nếu như tỷ giá biến động trái ngược với dự đoán của họ. Nhà đầu cơ giống nhà kinh doanh ở chỗ có tham gia mua bán ngoại tệ và kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá lúc mua so với lúc bán hoặc giá lúc bán so với lúc mua. Tuy nhiên, nhà đầu cơ khác nhà kinh doanh ở chỗ, họ có rủi ro hơn do thời gian giữa  lúc bán và lúc mua trong TH đầu cơ thường dài hơn trong TH kinh doanh. Chẳng hạn, nhà đầu cơ dự báo trong tương lai đồng USD sẽ lên giá so với đồng VND, khi ấy họ sẽ mua USD chờ đến khi USD lên giá bán lại để kiếm lời. Hoạt động này được xem như là đầu cơ giá lên. Ngược lại, nếu nhà đầu cơ dự báo tương lai đồng EUR sẽ xuống giá so với USD, khi ấy họ sẽ bán EUR ngay hiện tại và chờ đến khi EUR xuống giá sẽ mua lại. Hoạt động này được xem như là đầu cơ giá xuống.
  • Các nhà kinh doanh chênh lệch giá (arbitraguers) – là những người tìm lợi nhuận từ các cơ hội kinh doanh thuận lợi với phương châm là mua vào ở nơi nào, lúc nào rẻ và bán ở nơi nào, lúc nào đắt nhằm kiếm lợi nhuận phi rủi ro cho một thời gian rất ngắn. Các nhà kinh doanh chênh lệch giá là những người chuyên khai thác sự mất cân bằng tỷ giá giữa các khu vực để ra quyết định mua bán nhằm kiếm lợi nhuận phi rủi ro. Chẳng hạn, nếu USD có giá cao ở TP. Hồ Chí Minh trong khi rẻ ở Sydney, nhà kinh doanh chênh lệch giá sẽ bỏ VND ở TP. HCM để mua đô la Úc (AUD), sau đó sử dụng AUD để mua USD ở Sydney và bán USD lại ở  TP. HCM để thu về số VND lớn hơn lúc bỏ ra.

1.2.        Các loại giao dịch ngoại tệ
Hầu hết các NHTM ở VN đều có hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Tuy nhiên, tùy theo chiến lược hoạt động của mình có ngân hàng rất chú trọng hoạt động này cũng có ngân hàng không quan tâm lắm đến hoạt động này. Các ngân hàng chú trọng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ chẳng hạn như Vietcombank, Eximbank, ACB, Đông Á bank, Techcombank…thường có một bộ phận chuyên KD trên ngoại tệ thị trường quốc tế và một bộ phận chuyên kinh doanh vào ngoại tệ với KH nội địa. Các loại gioa dịch kinh doanh ngoại tệ mà các NH thường thực hiện bao gồm:
  • Giao dịch giao ngay ngoại tệ (Currency Spot Transactions).
  • Giao dịch kỳ hạn ngoại tệ (Currency Forward Transactions).
  • Giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Currency Swaps Transactions).
  • Giao dịch giao sau ngoại tệ (Currency Futures Transactions).
  • Giao dịch quyền chọn ngoại tệ (Currency Options Transactions).
  • Giao dịch kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage).

1.3.        Rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ
Kinh doanh ngoại tệ nói chung là một hoạt động rủi ro, ngoại trừ hoạt động môi giới và kinh doanh chênh lệch giá. Rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ là rủi ro tỷ giá, tức là rủi ro khi tỷ giá biến động. Rủi ro này phát sinh tùy theo trạng thái (position) của ngân hàng về một loại ngoại tệ nào đó. Khi ngân hàng mua vào nhiều hơn bán ra một loại ngoại tệ nào đó, chẳng hạn EUR, khi ấy ngân hàng ở trạng thái dương (long position) đồng EUR. Nếu sau khi mua vào mà EUR giảm giá thì ngân hàng bị lỗ. Do đó, ở trạng thái dương EUR, rủi ro kinh doanh ngoại tệ ở chỗ EUR có thể giảm giá trong tương lai. Ngược lại, khi ngân hàng bán EUR ra nhiều hơn mua vào thì ngân hàng ở trạng thái âm EUR. Ở trạng thái này rủi ro kinh doanh ngoại tệ ở chỗ EUR lên giá trong tương lai.
Khi trạng thái của một loại ngoại tệ nào đó chưa được cân bằng nghĩa là ngân hàng ở trạng thái dương hoặc âm một loại ngoại tệ nào đó, ngân hàng phải quyết định hoặc là tiếp tục ở trạng thái mất cân bằng đó để đầu cơ với kỳ vọng tìm kiếm được lợi nhuận hoặc là tìm cách cân bằng trạng thái ngoại tệ để tránh rủi ro tỷ giá. Để cân bằng trạng thái ngoại tệ trong trường hợp ở trạng thái dương, ngân hàng có thể tham gia bán ngoại tệ đang ở trạng thái dương ra trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoặc thị trường ngoại hối quốc tế. Ngược lại, để cân bằng trạng thái ngoại tệ trong TH ở trạng thái âm, ngân hàng có thể mua vào ngoại tệ đang ở trạng thái âm đó trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoặc thị trường ngoại hối quốc tế. Khi trạng thái của một loại ngoại tệ nào đó trở về vị thế cân bằng, ngân hàng không còn rủi ro biến động tỷ giá của ngoại tệ đó.

II.            KINH DOANH NGOẠI TỆ TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
2.1.        Cơ chế kinh doanh ngoại tệ với thị trường quốc tế
Để thực hiện kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế, trước tiên NHTM phải được phép của NHNN và phải tuân theo các quy định về mở tài khoản và chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Kế đến phòng kinh doanh ngoại tệ có thể tuyển dụng, huấn luyện và tổ chức cho các nhân viên (dealer) của mình thực hiện các giao dịch kinh dianh trong phạm vi hạn mức đó. Trường hợp đầu cơ hoặc giao dịch với hạn mức lớn cho phép phải xin ý kiến và được sự đồng ý của lãnh đạo ngân hàng.
2.2.        Thông tin về tỷ giá
Thông tin về tỷ giá và những sự kiện có liên quan đến tỷ giá đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định ra lệnh mua hay bán một loại ngoại tệ nào đó. Trước khi ngồi vào thực hiện giao dịch, nhân viên kinh doanh ngoại tệ nên đọc lướt qua thông tin tỷ giá và các sự kiện có liên quan tới tỷ giá. Những thông tin này thường xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, internet. Các thông tin về tình hình kinh tế, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, lãi suất, chính sách tiền tệ, giá dầu, giá vàng, tình hình an ninh chính trị khu vực và thế giới…là những thông tin nhạy cảm và có tác động đến tỷ giá các loại ngoại tệ giao dịch trên thị trường quốc tế. Những thông tin này cần được thu thập và phân tích hàng ngày, thâm chí hàng giờ để làm cơ sở cho việc dự báo tỷ giá trước khi ra lệnh mua hay bán một loại ngoại tệ nào đó.
2.3.        Dự báo tỷ giá
Dự báo tỷ giá là một khâu rất quan trọng trong chuỗi các khâu cần thực hiện khi kinh doanh ngoại tệ. Dự báo tỷ giá giúp bạn có thể hình thành kỳ vọng hợp lý về tỷ giá của một loại ngoại tệ nào đó, từ đó, bạn mới có thể ra quyết định mua hay bán ngoại tệ. Hình vẽ dưới đây minh họa vai trò của dự báo tỷ giá  và quy trình thực hiện dự báo tỷ giá trước khi quyết định đặt lệnh mua hay bán. 

Những thông tin có ảnh hưởng đến tỷ giá => Các công cụ dự báo tỷ giá => Kỳ vọng hợp lý về tỷ giá ngoại tệ => Quyết định mua hay bán ngoại tệ

2.3.1.    Các thông tin ảnh hưởng đến tỷ giá
Có rất nhiều loại thông tin ảnh hưởng đến tỷ giá giữa hai đồng tiền bao gồm các thông tin kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, tình hình thất nghiệp, tình hình cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, tình hình lạm phát và lãi suất và các thông tin phi kinh tế khác như tình hình chính, an ninh, khủng bố, lời phát biểu hay bình luận quan trọng của các nhà lãnh đạo quốc gia…
Các loại thông tin này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến tỷ giá. Thông thường các nhà nghiên cứu thường xem lạm phát và lãi suất như là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá trong khi các yếu tố khác có thể tác động đến tỷ giá. Khi phân tích ảnh hưởng của một yếu tố nào đó lên tỷ giá cần hiểu rõ chiều hướng tác động của yếu tố đó. Chẳng hạn phân tích tác động của tình hình thất nghiệp lên tỷ giá EUR/USD chúng ta kỳ vọng rằng tỷ lệ thất nghiệp đanh giảm xuống ở Mỹ có tác động làm tăng giá USD so với EUR. Ngược lại, khi tỷ thất nghiệp ở Mỹ tăng lên có thể tác động làm giảm giá EUR so với USD.
Việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng để dự báo tình hình tỷ giá là một việc quan trọng và phức tạp. Nó đòi hỏi người phân tích phải am hiểu thông tin, nắm rõ tình hình thị trường và có kỹ năng phân tích kinh tế vĩ mô. Để giúp nhà phân tích có cơ sở thực hiện phân tích và dự báo tỷ giá phần tiếp theo sẽ xem xét hai công cụ dự báo thường được áp dụng: Lý thuyết đồng giá sức mua (PPP) và lý thuyết cân bằng lãi suất (IRP). Hai lỹ thuyết này đã được giới thiệu và xem xét kỹ trong các môn học Kinh tế quốc tế, Tài chính quốc tế và Thanh toán quốc tế.
2.3.2.    Các công cụ dự báo tỷ giá
Để dự báo tỷ giá của hai ngoại tệ nào đó chúng ta có thể sử dụng lý thuyết cân bằng sức mua (PPP). PPP dựa trên cơ sở giả định rằng không có chi phí giao dịch và nếu các yếu tố khác không đổi thì đồng tiền nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn được kỳ vọng sẽ giảm giá so với đồng tiền kia. Chẳng hạn để dự báo tỷ giá EUR/USD chúng ta có thể sử dụng mô hình dự báo tổng quát theo PPP như sau:
et=eo[(1+iUSD)/1+(iEUR)]^t
Trong đó;
et là tỷ giá EUR/USD ở thời điểm t trong tương lai
eo là tỷ giá EUR/USD ở thời điểm hiện tại;
iUSD và iEUR lần lượt là tỷ lệ lạm phát của đồng EUR và đồng USD. Thông thường chúng ta chỉ quan tâm dự báo tỷ giá sau một kỳ nhất định nên t=1, dó đó công thức dự báo tỷ giá có thể viết thành:
et=eo[(1+iUSD)/1+(iEUR)]
Bạn có thể đã gặp mô hình này trong môn học Tài chính quốc tế hoặc Thanh toán quốc tế. Ở đây không nhắc lại vấn đề lý thuyết của mô hình này mà chú trọng đến việc hướng dẫn bạn cách thức sử dụng mô hình này để dự báo tỷ giá. Để dự báo tỷ giá EUR so với USD theo mô hình này, bạn cần thu thập thông tin của 3 biến:
  • Tỷ giá giao ngay giữa EURR và USD, eo
  • Tỷ lệ lạm phát kỳ vọng ở Mỹ, iUSD
  • Tỷ lệ lạm phát kỳ vọng ở châu Âu, iEUR.
Thông tin về các biến số này không khó khăn lắm khi thu thập. Bạn có thể tìm thấy tỷ lệ lạm phát dễ dàng từ các website nói về tình hình và triển vọng kinh tế Mỹ và châu Âu. Chảng hạn, tỷ giá EUR/USD hiện tại là 1.2234 trong khi tỷ lệ lạm phát của Mỹ và châu Âu lần lượt là 3 và 3,5%, bạn có thể dự báo tỷ giá EUR/USD sau một năm nữa sẽ là:
et=eo[(1+iUSD)/1+(iEUR)] = 1,2234*[(1+0,03)/(1+0,05)] = 1,2175
Tuy nhiên, dự báo này bao giờ cũng có sai số nhất định do ảnh hưởng của các yếu tố khác chưa thể đưa vào mô hình dự báo. Mặt khác, đứng trên giác độ mục tiêu dự báo chúng ta cũng không nhất thiết phải có được kết quả dự báo chính xác hoàn toàn mà chỉ cần dự báo đúng được xu hướng trong tương lai là EUR sẽ giảm giá so với USD. Nhược điểm của mô hình dự báo tỷ giá này là ở chỗ nó cho rằng chỉ có lạm phát tác động trực tiếp đến tỷ giá trong khi các yếu tố khác như tình hình tăng trưởng kinh tế, tình hình cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế… thông qua lạm phát tác động gián tiếp đến tỷ giá. Điều này không đúng trên thực tế nên làm hạn chế đến mức độ chính xác của mô hình dự báo này. Hơn nữa, các quốc gia thường công bố số liệu tỷ lệ lạm phát theo năm, do đó, sử dụng mô hình PPP dự báo tỷ giá thường theo thời hạn một năm. Điều này lại không thực tế vì nhà kinh doanh cần được dự báo tỷ giá với thời hạn ngắn hơn.
Để khắc phục trở ngại này, bạn có thể sử dụng lý thuyết cân bằng lãi suất (IRP).
Lý thuyết cân bằng lãi suất có thể sử dụng như một công cụ dự báo tỷ giá dựa vào lãi suất thay vì dựa vào tỷ lệ lạm phát. Số liệu lãi suất có thể thu thập theo thời hạn năm, tháng, thậm chí theo ngày. Do vậy, có thể sử dụng lý thuyết cân bằng lãi suất để dự báo tỷ giá cho thời hạn tương đối ngắn. Điều này phù hợp với thực tiễn của các nhà kinh doanh hơn.
Để sử dụng lý thuyết cân bằng lãi suất dự báo tỷ giá, bạn phải thu thập số liệu về tỷ giá ngoại tệ ở hiện tại và lãi suất của hao ngoại tệ đó, sau đó áp dụng công thức tính như sau:
et=eo[(1+rUSD)/1+(rEUR)]^t
Trong đó;
et là tỷ giá thời điểm t; eo là tỷ giá hiện tại
rUSD và rEUR lần lượt là lãi suất của USD và EUR trong thời hạn t. Thông thường chúng ta chỉ quan tâm dự báo tỷ giá sau một kỳ nhất định nên t=1. Do đó công thức dự báo tỷ giá có thể viết thành:
et=eo[(1+rUSD)/1+(rEUR)]
Để dự báo tỷ giá EUR so với USD theo mô hình này, bạn cần thu thập thông tin của 3 biến:
  • Tỷ giá giao ngay giữa EUR và USD, eo
  • Lãi suất kỳ vọng ở Mỹ, rUSD
  • Lãi suất kỳ vọng ở châu Âu, rEUR
Thông tin về các biến số này không khó khăn lắm khi thu thập. Bạn có thể tìm thấy lãi suất dễ dàng từ các website[i] của NHTM trong và ngoài nước. Chảng hạn, tỷ giá EUR/USD hiện tại là 1,2234 trong khi lãi suất của dollar Mỹ là 3,25%/năm và đồng euro châu Âu là 3,5%/năm. Có thể dự báo tỷ giá EUR/USD sau 1 năm nữa sẽ là:
et=eo[(1+rUSD)/1+(rEUR)] = 1,2234*[(1+0,0325)/(1+0,035)]
 Cũng như lý thuyết đồng giá sức mua, dự báo tỷ giá theo lý thuyết cân bằng lãi suất có những sai số nhất định do ảnh hưởng của các yếu tố khác không được phản ánh trong mô hình dự báo. Trong mô hình này, chúng ta đã ngầm giải định rằng những những yếu tố khác có ảnh hưởng đến tỷ giá đều được phản ánh thông qua yếu tố lãi suất. Điều này không đúng trên thực tiễn nên làm cho mô hình dự báo trở nên kém chính xác. Tuy vậy, mô hình dự báo vẫn có ý nghĩa ở chỗ cho phép chúng ta dựa vào lãi suất để kỳ vọng tỷ giá trong tương lai của 2 đồng tiền. Chẳng hạn, trong ví dụ trên đây mặc dù chúng ta không thể dự báo chính xác được tỷ giá EUR/USD là bao nhiêu nhưng dựa vào lãi suất chúng ta có thể kỳ vọng hợp lý rằng trong tương lai EUR sẽ hạ giá so với USD.
2.3.3.    Kỳ vọng hợp lý về tỷ giá
Kỳ vọng hợp lý chính là dự báo tối ưu, tức là dự báo tốt nhất dựa trên thông tin có được. Ở đây dựa trên thông tin tỷ giá hiện tại và lãi suất của 2 đồng tiền chúng ta có thể dự báo về tỷ giá để từ đó hình thành nên kỳ vọng về tỷ giá EUR/USD trong tương lai. Kỳ vọng này được xem là kỳ vọng hợp lý về tỷ giá vì nó phản ảnh thông tin tốt nhất mà chúng ta có được.
Với những thông tin có được trên đây, chúng ta kỳ vọng rằng trong tương lai EUR sẽ hạ giá so với USD. Với tư cách là một nhà kinh doanh bạn kỳ vọng như thế. Các nhà kinh doanh khác trên TG cũng sẽ có những phân tích, dự báo và kỳ vọng tương tự như bạn. Kỳ vọng của các nhà kinh doanh sẽ có tác động đến hành vi của họ. Ở đây họ kỳ vọng rằng EUR xuống giá so với USD, do đó, phản ứng của họ là sẽ bán EUR và mua USD.
Nhiều người kỳ vọn và phản ứng giống nhau khiến cho cung EUR và cầu USD tăng lên. Kết quả là tỷ giá EUR/USD hay nói khác đi là EUR giảm giá so với USD.
2.4.        Quyết định mua hay bán ngoại tệ
Đầu giờ giao dịch, trước hết bạn nên điểm qua thông tin tỷ giá đóng cửa của ngày hôm trước. Kế đến lướt qua và thu thập những thông tin và sự kiện mới nhất có ảnh hưởng đến tỷ giá. Sau đó bạn xử lý và phân tích những thông tin này để dự báo tỷ giá và hình thành kỳ vọng hợp lý về tỷ giá của một loại ngoại tệ nào đó so với USD. Dựa trên kỳ vọng tỷ giá này bạn có thể đặt lệnh mua hay lệnh bán. Chẳng hạn bạn kỳ vọng EUR xuống giá trong CHF lên giá. Khi ấy bạn sẽ đặt lệnh bán EUR và lệnh mua CHF. Nên nhớ rằng kỳ vọng chỉ là dự báo chứ chưa xảy ra cho nên bạn có rủi ro. Trong trường hợp này bạn kỳ vọng EUR xuống giá nên đặt lệnh bán EUR trong khi các nhà kinh doanh khác trên thị thị trường quốc tế, do có được thông tin khác bạn, có thể kỳ vọng răng EUR lên giá do đó họ đặt lệnh mua thay vì đặt lệnh bán như bạn. Nếu doanh số của lệnh mua lớn hơn doanh số của lệnh bán khiến cho EUR lên giá trên thị trường, khi ấy bạn sẽ bị lỗ vì bán đi một ngoại tệ sau đó ngoại tệ này lên giá.
(St)






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét