Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

Lựa chọn mô hình giám sát tài chính phù hợp cho Việt Nam

(11/02/2011)
Hệ thống tài chính phát triển lành mạnh, bền vững, ổn định – đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư và người gửi tiền là mục tiêu chính của nhiều quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, hệ thống giám sát tài chính đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo môi trường phát triển thuận lợi và lành mạnh cho các định chế tài chính.
Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính gần đây cũng đã cho thấy những hệ lụy to lớn khi hệ thống thanh tra giám sát thất bại trong việc điều tiết, giám sát hệ thống tài chính, chia sẻ thông tin và phối hợp công tác giữa các cơ quan giám sát quốc gia. Cái giá phải trả cho sự thất bại này không đơn thuần chỉ là các gói giải cứu các định chế tài chính lớn, các gói kích cầu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và nạn thất nghiệp, mà nghiêm trọng hơn là khủng hoảng lòng tin và bất ổn xã hội. Vẫn biết để tiến hành cải tổ hệ thống thanh tra giám sát nhằm đảm bảo hoạt động có hiệu quả đòi hỏi rất nhiều nguồn lực và chi phí, tuy nhiên, những chi phí này sẽ vẫn thấp hơn rất nhiều so với cái giá phải trả cho sự kém hiệu quả của hệ thống thanh tra giám sát. Do đó, nhu cầu nâng cấp thậm chí thay đổi hệ thống thanh tra giám sát tài chính phù hợp hơn là đòi hỏi hết sức cấp bách đối với các quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng thay đổi này.

I. Mô hình giám sát tài chính hiện hành của Việt Nam
Hiện nay mô hình giám sát tài chính Việt Nam theo mô hình phân tán dựa trên cơ sở thể chế. Theo đó NHNN thực hiện hoạt động thanh tra giám sát hoạt động các TCTD, Bộ Tài chính thực hiện giám sát hoạt động chứng khoán và Bảo hiểm (chịu sự giám sát trực tiếp của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước và Cục Bảo hiểm).

Sơ đồ: Mô hình giám sát tài chính hiện nay của Việt Nam



Ủy Ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
UBCKNN chính thức được thành lập vào ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về chứng khoán và Thị trường chứng khoán (TTCK). Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của UBCKNN là quản lý, thanh tra, kiểm tra và giám sát các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động trên TTCK và xử lý các vi phạm về hoạt động chứng khoán theo quy định của Pháp luật. Sau một thời gian hoạt động, Ủy ban này được Chính phủ chuyển vào Bộ Tài chính nhằm tăng cường hiệu quả điều phồi hoạt động của các bộ, ngành chức năng trong việc thúc đẩy TTCK phát triển.
Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh của TTCK từ cuối năm 2006 đến nay dường như vượt quá năng lực quản lý của UBCKNN. Trên thực tế, cơ quan này còn non trẻ, chưa có đủ điều kiện cần thiết để quản lý và giám sát có hiệu quả hoạt động trên TTCK. Ngoài ra, thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) cũng đang hoạt động một cách tự phát, chưa được quản lý và bảo vệ, và không có được sự minh bạch như ở Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Trước tình hình như vậy, Chính phủ cũng đã yêu cầu Bộ Tài chính phải tăng cường quản lý, theo dõi, thanh tra, kiểm tra để đảm bảo cho thị trường phát triển theo đúng định hướng đề ra, phát huy mặt tích cực, hạn chế tối đa những mặt tiêu cực đối với thị trường, không để xảy ra những biến động lớn vượt ra ngoài tầm kiểm soát. 

Cục Bảo hiểm
Thành lập từ tháng 3 năm 2003, trực thuộc Bộ Tài chính và chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước. Cụ thể là kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Việt Nam, văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài và doanh nghiệp môi giới nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời phối hợp với Thanh tra Bộ trong việc xây dựng kế hoạch và thực hiện thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.

Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG)
Được thành lập theo quyết định số 34/2008/QD – TTg ngày 3/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan này có chức năng tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong điều phối giám sát thị trường tài chính quốc gia (trên cả 3 lĩnh vực Ngân hàng, Bảo hiểm, Chứng khoán), giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài chính quốc gia. Theo Quyết định này, Ủy Ban GSTCQG sẽ là đầu mối điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành, giám sát chung thị trường tài chính và việc chấp hành các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành trên cả ba lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng.
Ủy ban cũng tiến hành phân tích dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính ngân hàng và nguy cơ rủi ro với thị trường tài chính quốc gia, thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp thông tin về thị trường tài chính quốc gia báo cáo Chính phủ.

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTG VN)
Được thành lập theo quyết định số 218/1999/QD – TTg, ngày 9 tháng 1 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ của BHTG VN là bảo vệ quyền lợi và lợi ích của hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát triển lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng.
Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động cho đến nay, BHTG Việt Nam đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần nâng cao niềm tin công chúng và duy trì một phần sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, với mức tăng trưởng huy động vốn bình quân hàng năm là 30% , số lượng các tổ chức tham gia vào BHTG cũng gia tăng mạnh mẽ, khẳng định niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của BHTG Việt nam còn nhiều bất cập và hạn chế như: chức năng và nhiệm vụ chưa được quy định đầy đủ và rõ ràng theo thông lệ quốc tế, năng lực tài chính của các cán bộ còn hạn chế, chưa có sự trao đổi kết hợp với các cơ quan trong mạng lưới an toàn quốc gia khác. Điều này ảnh hưởng tới việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của BHTG.

Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng
Từ ngày 30 tháng 7 năm 2009 Ngân Hàng Nhà nước đã chính thức công bố quyết định thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan được thành lập trên cơ sở tổ chức lại 4 đơn vị trực thuộc NHNN bao gồm: Thanh tra, Vụ các ngân hàng, Vụ các TCTD hợp tác và trung tâm phòng chống rửa tiền. Thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng được coi là một công cuộc cải tổ đáng kể của NHNN nhằm tăng cường khả năng thanh tra, giám sát hệ thống các TCTD. Theo quyết định số 83/2009/QD – TTg ngày 27 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ: “ Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là cơ quan thường trực của NHNN thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; tham mưu giúp Thống dốc NHNN quản lý nhà nước đối với các TCTD, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng chống rửa tiền theo quy định của Pháp luật.

II. Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại
Trước sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ tài chính trong nền kinh tế, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra hết sức mãnh liệt ở tất cả các quốc gia trên thế giới, thì hệ thống giám sát tài chính hiện tại của Việt Nam đang nổi lên một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, chưa có những quy định rõ ràng về quyền hạn và chức năng xử lý của từng bộ phận
Mục tiêu của hệ thống thanh tra giám sát là nhằm đảm bảo cho sự duy trì ổn định, phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và người gửi tiền. Để đạt được các mục tiêu này, các cơ quan thanh tra, giám sát thường sử dụng các công cụ như: Công cụ quản lý, công cụ giám sát, công cụ “kỷ luật thị trường”, …Các công cụ, chức năng và phạm vi hoạt động của từng cơ quan giám sát phải được quy định rõ trong luật, tạo tiền đề cho hoạt động giám sát có hiệu quả, không chồng chéo.
Thực tế hiện nay, khung pháp lý cho hoạt động thanh tra giám sát chủ yếu dựa trên các luật sau:
·        Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD
·        Luật thanh tra
·        Luật chứng khoán
·        Luật kinh doanh bảo hiểm
·        Hệ thống văn bản dưới luật, quy định cụ thể các hoạt động giám sát cho từng lĩnh vực: ngân hàng, chứng khoán, Bảo hiểm
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khu vực tài chính ngân hàng, những nguồn luật trên thể hiện những bất cập, cần phải được bổ sung, làm mới nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát. Cụ thể là:
Chưa có một luật thanh tra giám sát chuyên ngành quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cách thức hoạt động các các cơ quan giám sát. Và đặc biệt để làm rõ cơ chế phối hợp hoạt động và trao đổi thông tin giữa các cơ quan chủ chốt: NHNN, Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi, và Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG).
Các cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra truyền thống bỏ sót nhiều lĩnh vực hoạt động, dịch vụ, sản phẩm mới của các tổ chức tài chính, đặc biệt là những sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự kết hợp giữa các lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
Kiểm soát rủi ro các tập đoàn tài chính, cho đến thời điểm này, chưa có một quyết định rõ ràng cho phép một cơ quan có thẩm quyền tiến hành thanh tra các tập đoàn tài chính trên cơ sở hợp nhất. Thực tế, nhiệm vụ kiểm soát rủi ro chung này, tạm thời được coi là thuộc chức năng của UBGSTCQG. Tuy nhiên cơ quan này lại không có chức năng giám sát từng định chế tài chính mà chỉ là tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong giám sát tổng thể thị trường tài chính.

Thứ hai, hiệu quả giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát còn thấp
Ngoài những bất cập về cơ sở pháp lý cho hệ thống thanh tra giám sát, hoạt động thanh tra, cả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, có hiệu quả rất thấp bởi nhiều nguyên nhân:
Một là, công nghệ thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa rất lạc hậu. Trong khi, hoạt động giám sát tài chính lại phụ thuộc rất nhiều về khả năng thu thập thông tin. Để hoạt động giám sát có hiệu quả hơn, ít nhất phải có một hệ thống thông tin quản lý có khả năng cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát một cách nhanh chóng và chính xác.  
Hai là, chưa có một quy định chung về cách thức giám sát cho cả hệ thống tài chính. Hiện nay, Cơ quan thanh tra giám sát đã áp dụng chỉ tiêu CAMELS trong hoạt động giám sát từ xa. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chỉ mang tính định lượng chỉ áp dụng cho khu vực ngân hàng.  
Ba là, chưa thiết lập các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô (cho cả hệ thống) và giám sát an toàn vi mô (cho từng định chế tài chính) một cách có hiệu quả, nhất là trong điều kiện chuyển sang thanh tra giám sát dựa trên rủi ro trong thời gian tới. Các mô hình phân tích, dự báo, kiểm định “độ căng” (stress test) của cả hệ thống và cho từng định chế tài chính chưa được phát triển.
Bốn là, năng lực cán bộ của hệ thống thanh tra còn yếu so với yêu cầu đảm bảo an toàn an toàn cho hoạt động khu vực tài chính. Về cơ bản, cán bộ thanh tra chưa có khả năng sử dụng mô hình kiểm định và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của các tổ chức tài chính. Ngoài ra, theo như nhận định của một số chuyên gia trong ngành tài chính ngân hàng, văn hóa giám sát cũng như động lực thanh tra tại chỗ của cán bộ thanh tra còn yếu.

Thứ ba, sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động của Việt Nam với tiêu chuẩn của quốc tế
Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn về hoạt động an toàn tài chính riêng phù hợp với tình hình kinh tế và chính trị của mỗi nước. Không có một khuôn mẫu chuẩn nào cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hệ thống kế toán Việt Nam và hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế làm việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính theo Basel không mang lại kết quả như ý muốn. Ví dụ như chỉ số về nợ xấu của hệ thông ngân hàng sẽ thay đổi đáng kể khi chúng ta áp dụng hệ thống kế toán quốc tế (IFRS).
Ngoài ra, sự khác biệt này cũng gây ra một số khó khăn khi thực hiện giám sát các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt động tại Việt Nam. Như trường hợp của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài mới được cấp phép, hiện nay các hoạt động về an toàn tài chính của họ thực chất là tuân theo các quy định của ngân hàng mẹ, có sự khác biệt với quy định an toàn của Việt Nam.

III. Các mô hình tổ chức giám sát phổ biến trên thế giới và một số khuyến nghị cho hệ thống giám sát thanh tra tài chính tại Việt Nam

Các mô hình tổ chức giám sát của hệ thống giám sát tài chính
Các mục tiêu cho hoạt động thanh tra, giám sát đối với hệ thống tài chính được xác định khác nhau tùy theo mỗi quốc gia và được quy định rõ trong các văn bản luật của mỗi nước. Nhìn chung, những mục tiêu cơ bản của thanh tra giám sát bao gồm:
·        Duy trì sự ổn định và phát triển lành mạnh cho hệ thống tài chính
·        Bảo đảm sự hội nhập hiệu quả của thị trường tài chính trong nước vào thị trường tài chính quốc tế.
·        Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, các nhà đầu tư và các khách hàng khác liên quan đền các trung gian tài chính
Để đạt được các mục tiêu đề ra, các quốc gia áp dụng những mô hình tổ chức khác nhau đề triển khai hoạt động thanh tra giám sát. Nhưng nhìn chung, các quốc gia thường sử dụng các mô hình tổ chức của hệ thống giám sát tài chính theo cách tiếp cận sau:
Tiếp cận theo hướng thể chế: Theo cách tiếp cận này, ba mảng ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán sẽ do ba cơ quan tách biệt giám sát, thường gọi là mô hình 3 cực (three pillars). Mô hình này được áp dụng một cách rộng rãi, Việt Nam cũng áp dụng mô hình này cho hoạt động giám sát tài chính. Theo mô hình này, các chủ thể giám sát làm cả nhiệm vụ giám sát an toàn và giám sát hoạt động đối với các trung gian tài chính thuộc đối tượng giám sát. Cùng với sự phát triển của khu vực tài chính, một số các mục tiêu khác được bổ xung cho cơ quan giám sát như là bảo vệ tiền gửi cho người tiêu dùng, giám sát rửa tiền, tuy nhiên đây vẫn là mô hình truyền thống khi việc giám sát ba khu vực vẫn được tách riêng.
Tiếp cận theo hướng hợp nhất: Theo cách tiếp cận này, một chủ thể giám sát tổng hợp làm nhiệm vụ an toàn, điều tiết hoạt động đối với tất cả các trung gian tài chính hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Trong trường hợp này, chức năng giám sát an toàn và hoạt động đối với các trung gian tài chính không thuộc các bộ chủ quản truyền thống: NHTW, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán. Mức độ hợp nhất có thể khác nhau đối với các quốc gia, tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế và thể chế chính trị. Mức độ hợp nhất có thể được chia là hai loại: (i) Hợp nhất hoàn toàn: Các hoạt động kinh doanh tài chính và giám sát an toàn được điều tiết bởi một chủ thể giám sát duy nhất. (ii) Hợp nhất một phần: Chỉ hợp nhất hai trong ba lĩnh vực kinh doanh tài chính gồm ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.
Tiếp cận theo hướng hai đỉnh song song: theo hướng tiếp cận này, hệ thống giám sát được hình thành theo đối tượng giám sát và chia thành hai chủ thể giám sát với hai đối tượng riêng biệt: (i) giám sát thận trọng và an toàn; (ii) giám sát hoạt động.
Các quốc gia do đặc điểm thể chế chính trị cũng như tình hình kinh tế khác nhau, sử dụng các mô hình tổ chức giám sát tài chính khác nhau. Không có một mô hình chuẩn nào cho tất cả các quốc gia áp dụng, mỗi một mô hình đều có những ưu và nhược điểm. Trước khủng hoảng tài chính năm 2008, xu hướng áp dụng mô hình giám sát tài chính theo hướng hợp nhất và độc lập ngày càng được nhiều quốc gia theo đuổi bởi những lý do sau: (i) xu hướng hình thành các tập đoàn tài chính kinh doanh đa năng trên cả ba lĩnh vực; ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; (ii) sự xuất hiện ngày càng nhiều của các sản phẩm tài chính mới, phức tạp và kết hợp nhiều loại dịch vụ tài chính của các lĩnh vực khác nhau theo nhu cầu của thị trường; (iii) nguy cơ rủi ro hệ thống ngày càng tăng, cộng thêm xu thế hội nhập quốc tế của các thị trường tài chính đòi hỏi phải có sự giám sát hợp nhất mang tính quốc tế trong lĩnh vực giám sát tài chính. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra năm 2008 đã thể hiện sự bất lực của mô hình cơ quan thanh tra giám sát độc lập với hoạt động của NHTW và vì vậy đã đặt ra vấn đề xem xét lại mô hình giám sát. Ngay cả tại Anh quốc, nơi mà mô hình giám sát hợp nhất FSA có thể được xem là hoàn thiện hơn cả, thì hiện tại cũng đang phải xem xét và chuyển đổi lại mô hình hoạt động. Trọng tâm của lập luận hiện nay về vấn đề mô hình thanh tra giám sát không phải vấn đề là tiếp cận theo hướng hợp nhất hay theo hướng thể chế, mà là cơ quan này nên độc lập hay trực thuộc Ngân hàng trung ương. Những bằng chứng từ cuộc khủng hoảng năm 2008 dường như ủng hộ quan điểm cho rằng cơ quan giám sát tài chính hợp nhất này nên trực thuộc ngân hàng trung ương vì một số lý do: Thứ nhất, NHTW theo mô hình được theo đuổi phổ biến là chịu trách nhiệm giám sát các NHTM, và đây có thể được xem như cấu phần chủ đạo của cả hệ thống tài chính, đặc biệt trong các quốc gia mà thị trường vốn còn chưa phát triển; Thứ hai, NHTW vận hành hệ thống thanh toán liên ngân hàng, chính vì vậy mà là nơi đầu tiên có được các thông tin về vấn đề thanh khoản của các thành viên tham gia hệ thống, và cũng vì vậy mà có khả năng nhận thức được các vấn đề rủi ro tiềm ẩn đe dọa sự ổn định hệ thống; Thứ ba, với vai trò là người cho vay cuối cùng, NHTW có thể thực hiện can thiệp kịp thời trước khi vấn đề trở nên quá muộn.

Một số khuyến nghị cho hoạt động cho hệ thống thanh tra giám sát, tài chính Việt Nam
Ổn định tài chính luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng. Với sự hiện diện của những bất ổn không lường trước được trong tương lai thì tăng cường quản trị rủi ro và đề xuất các biện pháp quản trị rủi ro hơn bao giờ hết cần phải được đẩy mạnh thường xuyên nhằm thích ứng với môi trường mới. Vì vậy, vai trò của các cơ quan thanh tra, giám sát với vị trí là nhân tố cốt lõi của quá trình này trở nên cực kỳ quan trọng.
Theo Đề án phát triển ngành ngân hàng giai đoạn 2006-2010 được ban hành theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thì mục tiêu phát triển cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là từng bước tạo tiền đề để đến sau năm 2010 xây dựng được Cơ quan Giám sát tài chính tổng hợp, có vị thế và vai trò cao hơn trong việc thực hiện chức năng giám sát an toàn toàn bộ hoạt động tài chính, bao gồm ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm, và một trong các định hướng đưa ra là ưu tiên đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của Thanh tra NHNN hiện nay theo hướng nâng cao tính độc lập, thống nhất về hoạt động nghiệp vụ và dưới sự quản lý của Thống đốc NHNN.
Những bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 vừa qua đã cho thấy định hướng phát triển cơ quan thanh tra giám sát theo Đề án 112 vẫn còn nguyên giá trị và cần tiếp tục thực hiện trong giai đoạn 10 năm tiếp theo. Trước mắt, cơ quan này cần phải có năng lực và thẩm quyền đảm nhận việc thanh tra giám sát toàn diện các ngân hàng thương mại hoạt động đa năng, đồng nghĩa với việc thực hiện thanh tra giám sát toàn diện các hoạt động chứng khoán, bảo hiểm của các công ty con thuộc những ngân hàng này. Để hoạt động thanh tra giám sát được cải thiện theo hướng phù hợp hơn với nhu cầu phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới là:
Thứ nhất, tăng cường năng lực giám sát cho các cơ quan giám sát chuyên ngành trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia: (i) Bổ sung nhân lực có trình độ cao; (ii) Đào tạo cán bộ và khuyến khích và tạo điều kiện cho các cán bộ hoàn thành các chứng chỉ quản trị rủi ro; (iii) Đầu tư mạnh cho công nghệ đáp ứng cho nhu cầu thu thập, xử lý, phân tích và trao đổi thông tin giữa các cơ quan giám sát và tổ chức bị giám sát.
Thứ hai, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát. Cụ thể, phải có luật thanh tra chuyên ngành, quy định rõ về nội dung và phương pháp thanh tra chuyên ngành ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Hoàn thiện và bổ sung những lĩnh vực hoạt động tài chính ngân hàng mới mà hiện nay vẫn chưa được cơ quan thanh tra giám sát quan tâm  lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, bảo vệ người sử dụng dịch vụ.
Cuối cùng và không kém phần quan trọng, cần sơm thiết lập một cơ chế phối hợp hoạt động và trao đổi thông tin hiệu quả giữa các cơ quan chủ chốt: NHNN, Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi, và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Cơ chế phối hợp này sẽ giúp các cơ quan thanh tra giám sát tài chính không bị chồng chéo công việc, đảm bảo giám sát tốt hơn các tổ chức đa ngành.
Anh Duy

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét