Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

Đề xuất giải thể cơ quan giám sát tài chính- Thất bại của mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất

Mô hình cơ quan quản lý, giám sát khu vực tài chính luôn là chủ đề “nóng”, nhận được sự quan tâm của công chúng, nhà khoa học, các tổ chức tài chính và cơ quan quản lý. Mô hình cơ quan quản lý, giám sát khu vực tài chính nào có hiệu quả luôn là câu hỏi khó đối với từng quốc gia. Trong những năm vừa qua, khu vực tài chính là lĩnh vực chứng kiến nhiều biến động lớn từ khủng hoảng tài chính, cải cách mô hình cơ quan giám sát ở từng quốc gia cho đến cải cách việc hợp tác giám sát các tổ chức tài chính xuyên quốc gia. Đánh giá về khủng hoảng tài chính thế giới, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính thế giới 2007 là do các yếu kém, bất cập của cơ quan quản lý, giám sát khu vực tài chính. Do vậy, sau khủng hoảng tài chính thế giới 2007, việc cải cách cơ quan quản lý giám sát khu vực tài chính, khắc phục các yếu, kém bất cập của cơ chế quản lý, giám sát khu vực tài chính là một trong những ưu tiên hàng đầu của hầu hết các quốc gia, đồng thời đây cũng là chủ đề được tập trung thảo luận tại các hội nghị của G20. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập về đề xuất cải cách Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA), nguyên nhân dẫn đến thất bại của mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất.
Sự ra đời của mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất và FSA
Cho đến giữa những năm 1990, phần lớn các nước trên thế giới vẫn áp dụng mô hình quản lý khu vực tài chính theo loại hình tổ chức tài chính. Theo đó, các cơ chế cấp phép và quản lý được áp dụng riêng rẽ đối với khu vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán, trong đó ngân hàng trung ương thường đảm nhận vai trò quản lý, giám sát các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các tập đoàn tài chính, ngân hàng, xu hướng hợp nhất thể chế quản lý với quan điểm giảm thiểu số lượng cơ quan tham gia vào quản lý hệ thống tài chính đã diễn ra tại nhiều nước.
Mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất được áp dụng tại Anh vào năm 1997 với việc thành lập Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA) thực hiện đồng thời chức năng (i) quản lý thị trường chứng khoán và quản lý vận hành thị trường đối với các quỹ hưu trí và quỹ tương hỗ; và (ii) quản lý giám sát các công ty bảo hiểm và các ngân hàng thương mại. Tính đến trước thời điểm xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới 2007, có khoảng 30 quốc gia đã chuyển sang áp dụng ở mức độ khác nhau mô hình quản lý khu vực tài chính mới có tên gọi là mô hình “cơ quan giám sát tài chính hợp nhất”.
Đề xuất cải cách FSA của Chính phủ Anh
Khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ 2007 là dấu mốc đánh dấu sự thay đổi căn bản xu hướng lựa chọn mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất. Từ tháng 5/ 2010, Chính phủ Anh đã đưa vấn đề cải cách quản lý khu vực tài chính thành nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đến tháng 6 /2011, sau hơn một năm nghiên cứu, Bộ Tài chính Anh, Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) và Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA) đã trình lên Nghị Viện Anh đề xuất về dự luật cải cách hệ thống cơ quan quản lý giám sát khu vực tài chính[1] (Dự luật).
Theo Dự luật này, Cơ quan Giám sát Khu vực Tài chính sẽ bị giải thể; các chức năng của FSA sẽ được chuyển giao cho 03 cơ quan khác nhau: (i) Ủy ban Chính sách Tài chính (FSC – Financial Policy Committee) thuộc Ngân hàng Trung ương Anh thực hiện chức năng giám sát an toàn vĩ mô, giám sát và xử lý rủi ro hệ thống; (ii) Cơ quan Quản lý An toàn (PRA-Prudential Regulation Authority) trực thuộc Ngân hàng Trung ương Anh thực hiện chức năng ban hành các quy định về an toàn; (iii) Cơ quan Hoạt động Tài chính (FCA-Financial Conduct Authority) có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ tài chính và hoạt động của thị trường tài chính được thực hiện theo cách thức có lợi cho người sử dụng dịch vụ tài chính và thành viên tham gia thị trường tài chính, bao gồm cả việc khuyến khích môi trường cạnh tranh.
Đề xuất cải cách này sau khi được Nghị viện Anh thông qua sẽ chính thức sẽ xóa bỏ mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất tại Anh. Hay nói cách khác, việc giải thể FSA ở Anh đánh dấu thất bại của mô hình cơ quan giám sát hợp nhất.
Nguyên nhân thất bại của mô hình cơ quan quản lý giám sát tài chính hợp nhất (FSA)
Trong tài liệu trình Dự luật lên Nghị viện Anh cũng chỉ rõ các bất cập của mô hình FSA, cụ thể:
Một là, khủng hoảng tài chính 2007 xuất phát từ hai nguyên nhân quan trọng: (i) Do các tổ chức tài chính không quản lý một cách an toàn các hoạt động kinh doanh của mình; không hiểu rõ các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh mà mình đang thực hiện; (ii) Do các cơ quan quản lý và giám sát đã thất bại trong việc đưa ra cơ chế giám sát chặt chẽ để bảo đảm các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác có thể quản lý được các rủi ro nảy sinh trong bảng tổng kết tài sản của mình, ở cả cấp độ từng tổ chức tài chính và cả hệ thống các tổ chức tài chính; hệ thống cơ quan quản lý thiếu công cụ để xử lý vấn đề “quá lớn để phá sản” khi một số tổ chức tài chính đã trở thành quá lớn, quá phức tạp và sự thất bại của tổ chức này có thể đe dọa nghiêm trọng sự an toàn của cả hệ thống tài chính.
Hai là, khủng hoảng tài chính 2007 đã chỉ rõ sự yếu kém tiềm ẩn của hệ thống các cơ quan quản lý giám sát tài chính ba bên ở Anh. Bất cập lớn nhất chính là không có một cơ quan riêng lẻ có đủ thẩm quyền, trách nhiệm để giám sát toàn bộ hệ thống tài chính. Trước khủng hoảng, Ngân hàng trung ương Anh được chỉ định, về mặt danh nghĩa, có trách nhiệm ổn định tài chính, nhưng thiếu công cụ để thực thi trách nhiệm này trên thực tế; trong khi đó, Bộ Tài chính Anh không có trách nhiệm rõ ràng trong việc xử lý khủng hoảng đã đặt hàng tỷ bảng Anh của công chúng vào rủi ro; Toàn bộ trách nhiệm quản lý, giám sát hệ thống tài chính được đặt vào tay một cơ quan duy nhất là FSA, và chính điều này đã làm gia tăng khủng hoảng.    
Thực ra, thất bại của mô hình cơ quan giám sát hợp nhất (FSA) đã được nhiều chuyên gia đề cập từ trước đó, đặc biệt khủng hoảng tài chính thế giới 2007 đã cho thấy rõ hơn các bất cập của mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất (cơ quan giám sát hợp nhất). Năm 2009, một tài liệu nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)[2] đã chỉ ra “bài học quan trọng rút ra từ khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay là đã cho thấy nhiều bất cập của mô hình cơ quan giám sát hợp nhất”, cụ thể: 
Thứ nhất, so với chức năng giám sát an toàn vĩ mô, công chúng có thể dễ dàng đánh giá việc thực hiện chức năng quản lý của cơ quan giám sát hợp nhất. Do vậy, cơ quan giám sát hợp nhất thường sử dụng nhiều quỹ thời gian và nguồn lực cho chức năng quản lý. Việc dễ đánh giá thành công hay thất bại trong vai trò quản lý đã được chứng minh trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2007, ví dụ trong trường hợp gian lận của Madoff. Thực tế cho thấy cơ quan quản lý hợp nhất có thể không đầu tư đúng mức vào nhiệm vụ giám sát an toàn so với nhiệm vụ quản lý. Cơ quan giám sát tài chính của Anh (FSA) cũng đã thừa nhận rằng “giữa hai nhiệm vụ quản lý hoạt động và giám sát an toàn, hiện dường như đang nghiêng về nhiệm vụ quản lý[3].
Thứ hai, cơ quan giám sát hợp nhất đã không theo đuổi các mục tiêu an toàn vĩ mô. Do đó, trách nhiệm đối với các chính sách an toàn vĩ mô thường không được phân định rõ ràng, dẫn đến sự thiếu trách nhiệm đối với các vấn đề tài chính vĩ mô. Ví dụ, ngân hàng trung ương thường có trách nhiệm ban hành báo cáo tổng quan về hệ thống vĩ mô, thường dưới dạng báo cáo ổn định tài chính, tuy nhiên các công cụ chính sách, ngoài công cụ lãi suất, để xử lý các bất cân đối về tài chính vĩ mô lại được giao cho một cơ quan khác, vốn phản ứng rất chậm trước những thay đổi về vĩ mô. Về nguyên tắc, ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát hợp nhất có thể phối hợp để đạt được các mục tiêu chính sách, song trên thực tế sự phối hợp này đôi khi rất khó khả thi. Bên cạnh đó, cả hai cơ quan này đều không hoàn toàn chịu trách nhiệm trong trường hợp không phối hợp được với nhau. Chính điều này làm giảm động lực khuyến khích hai cơ quan đưa ra các chính sách an toàn vĩ mô nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Thứ ba, liên quan đến xử lý khủng hoảng, một nhiệm vụ khó khăn là phải bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan một cách hiệu quả. Điều này cũng có nghĩa là phải có một Biên bản ghi nhớ, hoặc phải thành lập một Uỷ ban thường trực hay Uỷ ban đại diện của các cơ quan. Như được phân tích ở trên, ngân hàng trung ương cần được tiếp cận với các thông tin giám sát để thực hiện hiệu quả vai trò của mình trong việc đối phó khủng hoảng. Trong khi đó, theo Biên bản ghi nhớ, cơ quan giám sát toàn quyền quyết định thông tin nào có thể công bố và khi nào được công bố. Các cơ chế phối hợp hiện tại không cho phép ngân hàng trung ương có đủ quyền kiểm soát đối với các giải pháp xử lý của cơ quan giám sát.
Thứ tư, theo mô hình giám sát hợp nhất, chức năng giám sát hệ thống thanh toán được giao cho ngân hàng trung ương, trong khi thẩm quyền giám sát an toàn đối với những đơn vị sử dụng hệ thống thanh toán lại giao cho cơ quan giám sát hợp nhất. Do đó, ngân hàng trung ương không đủ thẩm quyền chính thức tác động đến hành vi của đơn vị sử dụng trong việc lựa chọn giữa hệ thống thanh toán an toàn cao hơn so với các phương thức thanh toán gây rủi ro hệ thống. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2007 giúp chúng ta nhận diện rõ các giao dịch thanh toán thiếu an toàn trên thị trường phi tập trung, do ngân hàng trung ương không có quyền tác động lên việc sử dụng các hệ thống an toàn trong các giao dịch ngoại hối (thông qua hệ thống thanh toán liên tục, hệ thống thanh toán bù trừ) cũng như các hệ thống thanh toán trong nước mang tính cạnh tranh cao.
Thứ năm, hơn nữa, một phần do sự phân tách giữa chức năng giám sát và chức năng ban hành các quy định an toàn nên các chuẩn mực an toàn hiện nay nhìn chung không xét đến rủi ro đối tác phát sinh từ việc sử dụng các cơ chế thanh toán và cơ chế bù trừ thiếu an toàn.
Thứ sáu, mô hình cơ quan giám sát hợp nhất không khuyến khích ngân hàng trung ương giảm thiểu rủi ro hệ thống và cũng không tạo ra những lợi ích khuyến khích đảm bảo hiệu quả quản lý hệ thống tài chính. Trong khi đó, xét về vị trí, vai trò, chức năng, thì ngân hàng trung ương có động lực để giảm thiểu các rủi ro hệ thống vĩ mô bởi vì rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến các mục tiêu vĩ mô của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương còn có động lực để giảm thiểu rủi ro đạo đức phát sinh từ hoạt động thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng thông qua các quy định về thanh khoản hiệu quả. Xét trên góc độ ngân hàng trung ương tham gia đối phó với khủng hoảng, rốt cuộc ngân hàng trung ương vẫn có động lực để giảm thiểu tần suất xảy ra khủng hoảng tại cấp độ từng tổ chức tài chính.
Tóm lại, đề xuất cải cách giải thể FSA của Bộ Tài chính và thực tiễn đã chứng minh mô hình cơ quan giám sát hợp nhất không còn phù hợp với yêu cầu giám sát an toàn của khu vực tài chính, đặc biệt trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng./.
Rủi ro hệ thống vĩ mô xảy ra khi hệ thống tài chính gặp phải rủi ro tích tụ. Hệ thống tài chính gặp rủi ro này khi những rủi ro mà các tổ chức đã gánh chịu có mối liên hệ tương quan giữa các tổ chức với nhau. Trong trường hợp này, tính kết tinh của rủi ro có thể làm suy yếu toàn bộ hệ thống tài chính nói chung và dẫn đến quá trình giảm hệ số đòn bẩy làm cho nguồn tín dụng cấp cho nền kinh tế bị cắt đi rất nhiều.
Rủi ro hệ thống vi mô xảy ra khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính có sự tác động ngược lên toàn hệ thống tài chính. Điều này có thể xảy ra qua một số kênh. Ví dụ, sự đổ vỡ của một tổ chức có thể dẫn đến tổn thất cho các tổ chức tài chính có liên quan đến tổ chức tài chính đó. Sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính có thể ảnh hưởng đến các tổ chức dựa vào nguồn tín dụng của tổ chức tài chính đó. Trong môi trường thông tin không đối xứng, sự đổ vỡ của một tổ chức cuối cùng có thể dẫn đến sự mất tự tin và lan truyền sang các tổ chức tương tự, ngay cả khi những tổ chức này về cơ bản là an toàn.
Đoàn Thái Sơn- PC


[1] HM Treasury, “A new approach to financial regulation: the bluefrint for reform”, 2011
[3] Turner, Adair, 2009, “The Turner Review—A Regulatory Response to the Global Banking Crisis,” FSA.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét